Thứ Năm, 27 tháng 12, 2007

TỪ TRUYỆN (CHUYỆN?) “QUÁI TÌNH NƠI CỬA PHẬT”… (kèm theo ý kiến độc giả)


Báo Hạnh Phúc Gia Đình số ra ngày 28-12-2007 có giật tít bìa “Quái tình nơi cửa Phật”. Tìm đến trang 24, đọc xong mới giật mình vì có một câu chuyện đúng thật là “rất quái”. Điều khiến tôi phân vân với tờ báo là sự giật tít để câu khách có sự không đàng hoàng cho lắm. Nếu nó là một câu “chuyện” thật thì phải có những con người cụ thể, địa chị cụ thể, sự kiện ngày giờ cụ thể. Còn nếu nó là “truyện” thì nên ghi rõ là truyện ngắn vì đó thuộc lĩnh vực sáng tác và các nhân vật là hư cấu…

Truyện (chuyện?) có nội dung tóm tắt như sau: Sư cô Đàm Chi, trụ trì chùa Trúc, làng Phương Thượng, người sắc xảo, có uy tín, luôn chỉ bảo cho mọi người về đạo đức của nhà Phật. Bà Hường là một Phật tử thường hay lên chùa cầu an, cầu phúc. Một hôm bà Hường nhận được điện thoại của cô Dị về việc “đến chùa mà tìm chồng”. Cô Dị là một cô gái đồng bóng yêu ngây ngất sư cô. Sở dĩ cô Dị báo tin cho bà Hường vì cô ghen với mồi tình vụng trộm của sư cô Đàm Chi. Con trai bà Hường tên là Quang làm công an huyện, sau khi biết chuyện đã chở mẹ lên chùa tìm bố. Chuyện tằng tịu của bố Quang với sư cô Đàm Chi (“người đàn bà nõn nà trắng phớ đang ôm ghì người đàn ông sung mãn”) và chuyện ghen tuông của mẹ Quang khiến Quang lo lắng điện thoại đến chùa Quảng Tâm nơi thượng tọa Thích Đức Phi trụ trì. Thật không ngờ thượng tọa Thích Đức Phi là người có trình độ Phật học cao, tinh thông giới luật, có uy tín trong hàng giáo phẩm nhưng lại có quan hệ với sư cô Đàm Chi vì có người nhìn thấy hai người ở nhà nghỉ mát Đà Lạt. Và tiếp tục một đêm chiếc xe biển số 1068 (của bố Quang) lại êm ru tiến vào chùa Trúc. Cô Dị vì ghen quá đã cho người châm lửa đốt trai phòng của sư cô Đàm Dị. kết cục cô Dị bị bắt vì tội đốt nhà giết người. Nhưng “điều cô căm tức không phải chỉ vì hai kẻ kia thoát chết mà còn vì lão thượng tọa sau khi nhận được điện thoại của cô đã thông tin ngay cho hai kẻ kia trốn thoát. Cuối cùng họ phi tang, còn cô phải ra tòa chịu số phận tù đày sắp tới” (Quái tình nơi cửa Phật).
Đọc xong mới thấy “truyện” đã có “chuyện”. Bỏ qua những “dụng tâm” của người viết và tờ báo, chúng ta không khỏi suy nghĩ về những giá trị mà rồi đây rất có thể từ những con người cụ thể (hay từ những nhân vật được hư cấu) sẽ làm đổi thay đáng kể cái cán cân đạo đức xã hội. Và đâu đó người ta đang hình dung ra những sự mất giá quá lớn trong đời sống xã hội từ khắp các tổ chức đoàn thể xã hội, trong đó có tôn giáo.
Là một người Phật tử, tôi luôn nhắn nhủ mình rằng: “Y pháp bất y nhân” (y vào giáo pháp của Đức Phật mà tu tập, chứ đừng nhầm lẫn với những con người cụ thể, những con người mà sự hoán chuyển từ cái thiện sang cái ác là rất mong manh). Nhưng đó là những người được tiếp thu giáo lý để hiểu được điều đó như tôi. Còn biết bao nhiêu người chưa có tín tâm, đang mò mẫn vào đời sống tôn giáo thì họ chỉ có một điều suy nghĩ đơn giản là đạo Phật thiêng liêng thì những người thực hành (Tăng Ni, Phật tử) cũng phải là những người mẫu mực về đức độ, nhân cách, và điều khuyến khích họ sống tốt chính là những tấm gương trước mắt họ.
Thế nên không biết đúng hay sai, tình tiết nặng nhẹ ở mức nào, nhưng người dân bình thường cứ nhìn thấy, nghe thấy những cái gọi là “hòa thượng phản động”, “sư cô lẳng lơ”, “thày chùa giàu sụ, ăn chơi không thua người đời” là người ta nghĩ khác về đạo Phật, nghĩ xấu về đạo Phật mà không cần hiểu những con người đó tu vì mục đích danh lợi gì, theo chánh kiến nào, được ai sắp đặt… Có người nói: “Đành rằng đạo của quý vị đẹp thật, tốt thật nhưng tại sao nó đẹp tốt như thế mà có nhiều những con người đi theo nó lại chẳng thấy tốt đẹp chút nào. Tôi thấy nhiều người ở xóm tôi, đi chùa tụng kinh suốt ngày nhưng chửi chồng, chửi con, cãi lộn với hàng xóm như hát hay, thì cũng không hiểu là thế nào”…
Những năm tháng “hiện đại hóa” gần đây, tiếng xôn xao, lời đồn đại tiêu cực về đời sống tu hành của quý thầy, quý cô, thậm chí có người trong hàng giáo phẩm ngày càng có phần tăng lên trong các khóa tu, đạo tràng. Không hiểu quý thầy cô có tâm trạng hoang mang như người Phật tử hay không? Nhưng có người đã gằn giọng nói: “Người tu nhiều lên và tính đời tăng lên gấp nhiều lần”. Tôi cũng cố thử xem cái gọi là “tính đời” đó nó tăng lên ở điểm nào dù phải chấp nhận coi mình là kẻ soi bói. Quả thật, có những nơi ngoài ngôi chùa và những pho tượng Phật điềm tĩnh, từ bi, tôi thấy quý thầy có đầy đủ những vật dụng sinh hoạt như người bình thường, không những vậy nó còn là những thứ “đồ xịn” ra trò không kém. Không kể đến mốt “lên đời” xe đã trở nên phổ biến. Có những quý thầy tuổi còn rất trẻ, nhờ “thân quen” giới thiệu được trụ trì ở một ngôi chùa nào đó mấy năm đã có xe hơi đi lại. Xe hơi ngày càng trở nên phổ biến trong chốn chùa chiền. Không hiểu từ hôm nào, “chùa” đã nhanh chóng bước vào giới người giàu như vậy, và không ít quý thầy trở thành người mà Phật tử phải “ngước lên”, những cuộc gặp phải “xin hẹn”, lễ ít thì cho đệ tử là Sadi, chú tiểu tiếp... Thế là xã hội lại một phen xôn xao “đi tu sướng lắm”, “thày chùa bây giờ giàu ghê”. Nghe thì nhồn nhột, nhưng thấy người tìm đi xuất gia ngày một nhiều và gần như không được kiểm soát chặt, thành thử oai nghi đi đứng, nói cười của không ít Tăng Ni trẻ gần như “có vấn đề”…
Từ xa xưa, hình ảnh mái chùa, hình ảnh quý thầy, quý cô là hình ảnh gần gũi, lân mẫn với người dân bình thường, người lao động, người nghèo khổ thì nay đang có biểu hiện đi dần về phía “thượng lưu”. Không biết đó là phúc hay họa, là sự phát triển vượt bực hơn cả thời Lý-Trần của Phật giáo Việt Nam hiện nay như một vị hòa thượng phát biểu trên truyền hình Trung ương hay đó là một nỗi buồn lo không dễ nói thành lời. Phải chăng gắn sự phát triển của Phật giáo vào chùa to cảnh lớn, xe hơi đưa đón các thầy vào ra, nhiều trường học, nhiều lễ lạc…, rời xa những định hướng tâm linh căn bản là một mục tiêu chệch hướng?
Chắc chắn trong thời gian tới, những “truyện” những “câu chuyện” tương tự như “Quái tình nơi cửa Phật” sẽ còn xuất hiện. Nên người viết chỉ mong rằng Ban Trị Sư các tỉnh thành nên hoạt động hiệu qủa hơn nữa, là nơi để Phật tử có thể “đánh trống kêu oan” cho đạo đức nhà chùa, xử lý các tình huống ngay khi có những lời đồn đại không hay, chấn chỉnh oai nghi, giới hạnh của Tăng Ni (người của dân chúng). Nếu vi phạm 3 lần có thể tước danh trụ trì gửi đến một trú xứ để tòng chúng tu tập. Ban Trị Sự cũng nên quyết tâm hơn đối với những vị Tăng Ni có biểu hiện lên đồng nhập bóng vì ở đó có những lệch lạc trong giới tính, gây nên những biến thái về tâm sinh lý. Áp dụng những biện pháp mạnh (thải bớt tăng đồ) khi có những biểu hiện vi phạm nặng và để lời đồn đại kéo dài. Người viết mong giáo hội quyết tâm chỉ định thời gian tập tu ở chùa là 3 năm, trong thời gian này không được cạo đầu. Bên cạnh đó cử hẳn một ban giới luật theo dõi sinh hoạt của những người tập tu để làm cơ sở cho việc chấp nhận xuất gia về sau. Người viết cũng mong các vị thầy tinh tế hơn trong chọn lựa đệ tử, theo dõi sát đệ tử để nếu thấy những đệ tử nào có những biểu hiện “khó tu” thì dùng lòng từ bi của mình như một người cha người mẹ lo một đời sống thế tục cho họ trong thời gian đầu, đừng xua đuổi, trù dập họ. Bởi nếu họ không có duyên làm đệ tử xuất gia thì hãy cho họ cái duyên đệ tử tục gia, nhằm hướng dẫn đời sống tâm linh của gia đình họ về sau. Đừng để xảy ra những tình trạng bất mãn, thù ghét thầy và xa rời những giá trị tâm linh đạo Phật. Nếu Tăng Ni nào thấy mình không thể gắn bó hết cuộc đời xuất gia thì nên mạnh dạn trình bày với thầy bổn sư để tìm hướng đi sau đó cho mình. Trong thời gian còn ở chùa không được làm tổn hại đến uy tín của chùa và giáo hội. Thành lập hội những người tu xuất giúp đỡ nhau cũng là một việc nên làm.
Cơn bão thông tin đa phương tiện sẽ không nhân nhượng với bất cứ chuyện “thâm cung bí sử” nào. Một sự điều chỉnh mạnh mẽ ở bên trong của Giáo hội PGVN và của mỗi ngôi chùa vào lúc này là vô cùng cần thiết. Nếu được vậy thì những “truyện”, những “câu chuyện” như kiểu “Quái tình nơi cửa Phật” đều sẽ không có cơ hội xuất hiện trên mặt báo và dĩ nhiên chúng ta không phải phiền lòng. Hình ảnh “người làm dâu trăm họ” (chỉ quý thầy cô) có còn giữ được trong tâm khảm người Phật tử hay không? Câu trả lời nằm ở phía những nhà lãnh đạo giáo hội và sự ý thức về hình ảnh của chính mình nơi mỗi Tăng Ni.
Nam Quốc
Ý kiến độc giả theo phattuvietnam.net
Hải Đăng - Srilanka
(haidangdutu@yahoo.com)
Tôi thật sự buồn khi thấy tôn giáo của mình bị người khác xúc phạm qua cái gọi là sáng tác văn học như vậy. Và dưới hình thức một câu truyện như thế ấy, tác giả có một sự tác động tiêu cực đáng đáng kể vào quần chúng nói chung cũng như giới Phật tử nói riêng.
Nhưng cũng như một vài vị đã nói, trước khi trách người ta, bản thân Giáo hội Phật giáo cũng như mỗi thành viên trong đó (có cả tôi, một tu sĩ) phải quán sát lại chính mình. Nói một cách thẳng thắn, trong con mắt của phần đông quần chúng hiện nay, nhất là ở các thành phố, hình ảnh người tăng sĩ đã không còn đẹp, và hẳn nhiên không có gì để tôn kính.
Lỗi do ai? Không nói ra thì ai cũng đã biết. Và thật đau buồn là do bởi nằm chung trong một cộng đồng, có những vị tu hành mẫu mực, giữ giới nghiêm minh lại phải gánh luôn điều xấu do những “sư tử trùng” gây ra, một loại “trùng” đáng sợ.
Và “sư tử trùng” hiện nay, không chỉ có trẻ mà còn có cả già, không những vô danh tiểu tốt mà còn có cả chức quyền. Vì vậy để loại được những “sư tử trùng” không phải là một điều dễ làm hiện nay.
Mọi người trong diễn đàn này đều có chung quan điểm rằng, đã đến lúc phải xem xét lại việc nhận người xuất gia. Điều đó hẳn nhiên đúng. Nhưng theo tôi giáo dục người xuất gia cũng không kém phần quan trọng.
Tuy vậy, để việc giáo dục có hiệu quả thì bản thân mỗi người thầy phải giáo dục chính mình trước, mà nói theo ngôn ngữ nhà Phật là thân giáo. Thầy muốn đi xe hơi đời mới làm sao khuyên bảo đệ tử đừng đi xe máy loại sang. Thầy hút thuốc, uống bia làm sao cấm đệ tử đừng làm những điều đó…
Tôi không muốn viết lên đây nhiều, vì nói ra không biết có được gì không mà chỉ đau lòng thêm. Và tôi nghĩ những người điều hành trang www.phattuvietnam.net nên gửi bài viết của tác giả Nam Quốc và những ý kiến trong diễn đàn về Giáo hội trung ương, để cho chư vị ở trên thấy đã đến lúc các ngài cần phải nên làm gì. Và cũng để quý ngài thấy rằng có một bộ phận tu sĩ cũng như cư sĩ đang rất thao thức với tình trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thảo Nguyên - Hà Nội (thaonguyen_59@yahoo.com)
Tôi tán đồng với ý kiến của Lê Trung Dũng: người viết “Quái tình nơi cửa Phật” đã được tờ báo Phụ Nữ Việt Nam tiếp tay để bôi nhọ đạo Phật. Chúng ta có cơ sở để đòi tờ báo có một lời giải thích.
Vì nếu là truyện ngắn, sáng tác kiểu “muốn nói gì thì nói” thì cũng nên đặt nó trong mục sáng tác và ghi rõ là truyện ngắn. Hơn nữa, khi truyện ngắn có những vấn đề nhạy cảm, về nguyên tắc và thao tác biên tập, nên có một Lời tòa soạn nghiêm túc để tránh hiểu lầm và không “đánh lộn con đen” lừa người đọc không biết đâu là chân giả.
Vì ngay dòng đâu tiên đã viết: “Sư cô Đàm Chi, trụ trì chùa Trúc, làng Phương Thượng”. Người đọc làm sao biết được đây là giả hay thật. Còn nếu không phải truyện ngắn thì càng không thể chấp nhận một kiểu “vu khống” trắng trợn như vậy được.
Tôi rất đồng cảm với bài viết của tác giả Nam Quốc, nhưng tôi nghĩ mọi chuyện không đáng phải quá bi quan. Vì thách thức hiện đại không chừa bất kỳ tổ chức nào, tôn giáo nào ngay cả ở phạm vi nhà nước, chính phủ.
Tuy nhiên, do đạo Phật có những đặc thù tôn giáo và một bề dày truyền thống như vậy thì những biểu hiện lệch lạc trong nhân cách tu hành là đáng lên án.
Tôi được biết Thái Lan là một quốc gia tôn sùng đạo Phật, tượng Phật có ngay trong trụ sở cảnh sát, trên xe búyt có hẳn phần ghế ưu tiên ghi rõ: “Nơi dành cho nhà sư ngồi”. Nhưng họ không phải không nghiêm khắc. Nếu có một tăng sĩ nào đi đứng trên đường phố vi phạm vào giới luật thì có thể bị lột mũ áo ngay trước công chúng. Điều này chúng ta không phải không làm được!
Tôi nghĩ, Giáo hội nên mở một cuộc Hội nghị chấn chỉnh tác phong, nhân cách Tăng Ni, và hãy để diễn đàn này cho người trẻ lên tiếng. Bên cạnh đó, một biện pháp mạnh như nhiều ý kiến đã nêu là cần thiết. Nên có những chính sách thuyên chuyển, thậm chí trục xuất khỏi tăng đoàn nếu không đủ tư cách đạo đức.
Lê Trung Dũng - Đống Đa, Hà Nội (trung_dung375...@yahoo.com)
Tôi được biết tờ Hạnh Phúc Gia Đình chính là tờ báo Phụ Nữ Việt Nam có trụ sở tại 47 Hàng Chuối - Hà Nội. Điện thoại: (04) 971 9518; Phó Tổng biên tập (04) 971 7479
Đọc “Quái tình nơi cửa Phật”, tôi thấy đây là một sự xúc phạm. Dù nó là truyện ngắn đi chăng nữa. Bỏ qua nhân vật chính sư cô Đàm Chi, rõ ràng hình ảnh Giáo hội trực tiếp hay gián tiếp đã bị xúc phạm qua nhân vật thượng tọa Thích Đức Phi: “Người có trình độ học Phật cao, tinh thông giới luật, có uy tín trong hàng giáo phẩm”.
Điều này chủ ý đã qua rõ, người viết đã được tờ báo tiếp tay, nhằm đánh thẳng vào Giáo hội PGVN. Nếu bất cứ ai bất mãn điều gì đó với cá nhân nào đó, với tổ chức nào đó, đều hư cấu theo kiểu Hòa thượng A, Linh mục B, thậm chí Thủ tướng C, Tổng bí thư D có quan hệ tình dục bất chính v.v…, mặc dù tên của những nhân vật này không giống với thực tế thì mọi chuyện sẽ ra sao?
Tôi không thể tức tối với Bộ giáo dục là tôi đem những nhân vật (dù hư cấu) của bộ giáo dục ra viết hoàn toàn mang ý nghĩa bôi xấu được. Bởi giá trị còn được thể hiện khi tấn công cái xấu, cái ác nhưng cũng làm nổi bật lên cái đẹp.
Tôi nghĩ, dù là hư cấu thì cũng có những phạm vi quy tắc nghề nghiệp và lương tâm, đạo đức của người viết nhất định. Tôi nghĩ Giáo hội không nên đứng ngoài vụ việc này. Chúng ta có quyền lên tiếng để bảo vệ hình ảnh tôn nghiêm của chính mình.
Tôi thấy khi đăng bài viết trên tờ báo Phụ Nữ Việt Nam đã đánh mất hình ảnh của chính mình. Nếu chưa chính thức nhận được một câu trả lời nghiêm túc, tôi mong tất cả Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hãy bằng mọi cách lên tiếng và trước mắt là tẩy chay tờ báo không đáng đọc này.
Và cuối cùng, tôi mong qua đây, mỗi Tăng Ni hãy cảnh giác trước những cám dỗ, rèn luyện mình nhiều hơn nữa trước những sự vây bám của lối sống xa hoa hiện đại. Mọi sự đua đòi trong tinh thần Phật giáo đều không đáng khuyến khích. Hãy là hình ảnh của chính mình!
Nguyễn Thị Hiền - Quận I, TP. Hồ Chí Minh (dieu_minh...@yahoo.com)
Thật đau lòng khi biết có một tờ báo đã viết về quý thầy cô, người xuất gia tu hành như thế.
Tôi không biết tác giả chuyện “Quái tình nơi cửa Phật” sẽ vui vẻ và thỏa mãn như thế nào với trí tưởng tượng của mình. Và tôi cũng không hiểu tờ báo Hạnh Phúc Gia Đình sẽ kiếm được bao nhiêu tiền bán báo nhờ vào những câu chuyện giật gân như vậy.
Nhưng có một điều tôi hiểu rằng trong cuộc sống không ít người đang cố kéo các giá trị xuống thấp cho bằng mình. Tôi thực sự bị sốc, đến bây giờ vẫn còn mệt và ám ảnh bởi câu chuyện đó.
Tôi rất muốn gặp người đã viết câu chuyện thái quá trên để xem lòng căm thù “cái ác trong trí tượng tượng” của người đó lớn thế nào. Có thể trút hết lên người tôi có được không? Tôi cũng đang mang trong mình bệnh nặng, chỉ còn một chút niềm tin mong manh vào sự anh lành trong chốn tâm linh.
Mặc dù tôi biết bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra trong cuộc sống này, nhưng cách viết trắng trợn, thiếu lương tâm như vậy thì tôi mới thấy lần đầu. Những góc khuất trong tâm hồn, những nhẹ dạ cả tin, những cám dỗ si mê, những lầm lạc nhất thời đều có thể xảy ra với bất cứ ai nếu người đó chưa thực sự là thánh nhân.
Mỗi khi nhìn thấy như vậy tôi thấy đáng thương hơn là đáng giận. Cái thương là họ không nghĩ và làm được như mình. Cái đáng thương là họ không hiểu hết về nghiệp báo, nhân quả. Cái đáng thương của họ là do sự thờ ơ vô cảm của chúng ta. Cái đáng thương nữa là cách giáo dục của chúng ta, cách mà chúng ta đối xử và nhìn nhận sai lầm về tôn giáo.
Tôi chỉ mong Tăng Ni, Phật tử sau câu chuyện này hãy rút ra cho mình một bài học đắt giá. Đừng mua danh 3 vạn bán danh 3 ngàn. Đừng sống ích kỷ vì mình nhiều quá. Hãy sống vì những người thân yêu chung quanh, những người đã phải bỏ thời gian tinh thần, công sức thậm chí vật chất để tin tưởng, phụng sự và ngưỡng mộ mình.
Đệ tử xin niệm: Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát
Thích Đạo Quang - Lâm Đồng (quang_dao26@yahoo.com)
Tôi cho rằng, PGVN đang có biểu hiện chệch hướng trong giáo dục từ nhà chùa đến trường học. Nhiều vị trù trì khi tiếp nhận người vào xuất gia thường với mục đích để đông đệ tử, để khi có lễ lạt ma chay có nhiều người để tang. Nhiều vị còn trẻ, chưa chững chạc, chín chắn đã vội vã nuôi đệ tử.
Giáo hội cần có sửa đổi kịp thời nên quy định thêm, người thầy phải bao nhiêu tuổi đạo mới được nuôi đệ tử và một vị thầy chỉ nên nuôi tối thiểu là một vị, tối đa là bốn vị, nuôi ăn học đàng hoàng.
Nếu những chùa to, nuôi chúng thập phương về tạm trú để ăn học thì phải có cam kết và chứng nhận của Ban đại diện hay Ban trị sự, bảo đảm cho những sinh hoạt tu học nghiêm túc nhất.
Ban đại diện hay Ban trị sự nên có những buổi họp riêng với từng chùa khi có những lời đồn không tốt đẹp về biểu hiện tu hành của một số thầy tại chùa đó.
Các trường sơ cấp, cơ bản nên chú trọng nhiều hơn đến giáo dục oai nghi, cảnh sách và những giáo trình soạn riêng về giới luật, đạo đức tu hành. Giảm bớt những kinh luận đại thừa. Bởi nó không cần thiết với họ vì chúng ta đào tạo người tu hành căn bản, sơ cơ chứ không phải những “triết gia” tu không giống ai nhưng mở miệng ra là phá chấp.
Nếu giảng kinh đại thừa mà nhận thức chưa tới sẽ dẫn đến phá chấp, chưa hiểu hết về phương tiện nhưng lại lấy phương tiện biện minh cho hành động sai quấy của mình. Những con người như vậy càng xuất gia lâu thì càng nguy hiểm đến đạo pháp.
Đạo đức xã hội đang gióng lên những hồi chuông cảnh báo. Các thầy lãnh đạo đừng nên tự lừa dối chính mình nữa.
Cuối cùng tôi nghĩ, lỗi không hoàn toàn ở những người trẻ cạn nghĩ, bởi không ít bậc sư phụ khẩu giáo mà thân không giáo, nên đệ tử mới có những hành động không hay như vậy.
Đức Minh (ducminh_ng200...@yahoo.com)
Sau khi đọc bài viết của tác giả Nam Quốc, tôi đã tìm mua tờ báo. Quả nhiên đọc vào thấy đây gần như không phải là truyện ngắn bởi người viết có ý đồ bôi xấu đạo Phật một cách trực tiếp. Đó gần như không giá trị nghệ thuật, bởi sự vụng về trong tình tiết và các sự kiện, thuần mang tính bôi nhọ.
Tôi cho rằng Giáo hội nên có tiếng nói về vấn đề này. Bởi vấn đề mang tính cá biệt nhưng lại xúc chạm đến niềm tin của số đông người Phật tử. Nếu ai cũng “làm nghệ thuật” kiểu đó thì xã hội này thật nguy hiểm.
Tôi thật sự bất bình về tờ báo Hạnh Phúc Gia Đình, nói như tác giả bài viết là “không đàng hoàng”.
Tôi cũng cám ơn tác giả đã nói hộ tôi những điều khó nói. Đó là cái sự “giàu lên” của các chùa đã gây lên một sự xa lạ với Phật tử. Quả thật nếu Phật giáo Việt Nam mà có biểu hiện đi vào giới “thượng lưu”, “sành điệu” thì đang tự đánh mất hình ảnh của mình.
Bên cạnh đó oai nghi của quý thầy cũng có nhiều vấn đề. Tôi là Phật tử mà còn thấy chướng mắt khi thấy quý thầy cô chở nhau trên xe máy, hay chở phụ nữ trẻ trên xe. Và cần phải nói đến những thầy phóng xe bạt cả mạng trên đường với một kiểu cách ngông nghênh. Những biện pháp mạnh mà tác giả nêu ra theo tôi là rất cần thiết.
Xin có vài lời góp ý. Cảm ơn!
Trần Nguyên Hóa - TP. Hồ Chí Minh (tr_nguyenhoa...@yahoo.com)
Đọc xong bài viết, tôi thật sự bức xúc. Trách người ta viết với dụng ý xấu về đạo Phật. Nhưng ngẫm lại cũng buồn cho mình. Tôi thấy tăng sĩ trẻ đã trở nên lạm phát cao về oai nghi và phẩm hạnh. Nếu đổi lại sự phát triển xã hội cũng như Giáo hội kiểu này, tôi muốn quay lại những ngày nghèo khổ của mấy chục năm về trước, lúc ấy tình nghĩa đồng đạo keo sơn, không phân biệt, còn bây giờ thì nhiều biến tướng quá.
Đúng như nhiều người nghĩ, lời đồn đại tiêu cực về đời sống của quý thầy ngày càng tăng lên. Tôi thấy Hòa thượng Thích Thanh Tứ vì ngồi cao quá mà không thấy hết vấn đề. Làm sao Giáo hội bây giờ có thể xứng với tinh thần và thời đại Lý Trần.
Tôi chỉ mong qua đây, Giáo hội nên rút ra những bài học. Chấn chỉnh mạnh hơn nữa những oai nghi, phẩm hạnh người tu sĩ, đặc biệt là khi tuyển người xuất gia. Bởi ít bữa trước, tôi đọc báo cũng nghe một cái tít giật gân không kém: "Đi tu rồi lại thích ngồi tù" kể về một vị tăng ở miền Bắc chuyên đi lừa gạt tiền của tín đồ.
Tôi nghĩ, không có thế lực bên ngoài nào có thể vì ý đồ này hay ý đồ kia mà phá hoại được đạo Phật. Đức Phật nói: "Chỉ có con trùng trong con sư tử mới giết chết con sư tử mà thôi". Cám ơn tác giả bài viết và http://www.phattuvietnam.net/ đã kịp thời mở ra diễn đàn này. Mong thay Giáo hội nên chấn chỉnh ngay từ bây giờ. Nếu không thì không còn kịp nữa...
Minh Ngọc - TP. Hồ Chí Minh (phngbinh19...@yahoo.com.vn)
Theo tôi, truyện trên báo Hạnh phúc gia đình có nội dung xuyên tạc Phật giáo của một số người. Với người Phật tử chân chính thì việc giữ gìn đạo hạnh cho Tăng Ni là cần thiết.
Thế nhưng nhân vật trong chuyện (truyện) thì là người không đứng đắn làm tổn hại đến Giáo hội đến Đạo pháp thì không thể chấp nhận được. Tôi đồng ý với người viết về tình trạng xuất gia quá dễ dãi như hiện nay.
Chúng ta cần khắt khe hơn trong việc xuất gia, trong giao tiếp giữa Phật tử với quý thầy. Theo tôi làn sóng hiện đại càng lúc làm cho chốn Thiền môn nhiều chao đảo. Điện thoaị di động đắt tiền, mỗi phòng Tăng có máy lạnh, có ti vi, đầu đĩa thì không nên lạm dụng.
Tăng Ni cũng đi dự sinh nhật, ăn bánh kem, dự tiệc cưới đệ tử, nhắn tin cho đệ tử chúc ngủ ngon....
Theo tôi, các chùa nên lập một phòng sinh hoạt tập thể, trang bị tivi, máy tính nối mạng đầy đủ cho Tăng Ni giải trí lành mạnh là điều cần thiết. Hạn chế sử dụng tivi, đầu đĩa, máy vi tính cho mỗi phòng. Hạn chế sử dụng điện thoại, xe máy đắt tiền. Không nên đi dự tiệc sinh nhật, ăn bánh kem.
Các chùa phải quản lý mối quan hệ giữa Tăng Ni và Phật tử chặt chẽ, cần loại bỏ những người không xứng đáng khoác áo cà sa ra khỏi Tăng đoàn, tránh làm tổn hại chốn thiền môn, ảnh hưởng đến Giáo hội.
Vài dòng góp ý chân thành, kính mong chư tôn đức hoan hỉ đón nhận lời góp ý.
NAM MÔ HOAN HỈ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT
Tuệ Trung Lý - Hạ Long, Quảng Ninh (binhminhh...@vnn.vn)
Tôi đồng ý với ý kiến của tác giả. Tôi cũng đã chứng kiến có những vị sư có những chiếc xe máy đời mới nhất, những chiếc di động mốt nhất.
Nhìn họ tôi tự hỏi đời sống tu hành của kẻ “Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo” đây sao?
Việc quý thầy lấy việc cầu cúng giải hạn làm kế sống của kẻ tu hành cũng rất phổ biến trong một số tự viện, chùa chiền, nhất là ở chùa chiền miền Bắc vào những dịp đầu năm, cuối năm. Thử hỏi như vậy thời gian đâu cho việc tu tập tìm đường giải thoát nữa.
Giáo hội nên có những biện pháp cụ thể cho việc này, nhất là sau đại hội VI vừa qua. Với tổ chức nhân sự mới của Giáo hội, tôi tin tưởng rằng đạo Phật Việt Nam luôn là chỗ dựa về tinh thần và là hình ảnh đẹp trong mắt người dân, luôn xứng đáng với truyền thống vốn có của Phật giáo Việt Nam.
Đỗ Hòa - Hà Nội (hoadv200...@yahoo.com)
Trong con mắt người Việt Nam, nhất là ở miền Bắc, hình ảnh quý Thầy luôn gắn với sự thanh đạm, giản dị, gắn với đời sống tu hành khắc khổ. Vậy nên bây giờ nhiều người nhìn thấy quý thầy đi ô tô, xe máy đẹp, dùng điện thoại xịn thì buông rất nhiều lời bình phẩm, bàn tán không tốt. Đó là một thực tế. Với cương vị là người Phật tử, tôi cũng cố giải thích với họ rằng ô tô, xe máy cũng là phương tiện. Xe tốt, điện thoại tốt thì thuận lợi hơn cho việc đi lại, hoằng pháp chứ có gì đâu. Xã hội phát triển thì vật dụng của quý thầy, cũng như người dân tân tiến hơn thì tốt chứ sao.
Thế nhưng nhận thức của người dân thì khó thay đổi. Thầy chùa trông hiện đại thế cứ chướng mắt sao đó. Bản thân tôi cũng thấy rằng, lẽ ra, các thầy có thể dùng mua xe ô tô xịn, xe máy xịn, điện thoại xịn để in ấn kinh sách phổ biến giáo lý cho Phật tử, để lo cho người nghèo... thì tốt hơn rất nhiều.Nguy cơ đi tu là một nghề kiếm sống đang rất hiển hiện trước mắt. Mong rằng Giáo hội cần nhìn nhận thẳng thắn.

NHỮNG NHÂN SỰ MỚI VÀ TƯƠNG LAI CỦA GHPGVN


Sau những bài phát biểu quan trọng mang tính “tuyên huấn”, nặng về phương pháp dạy cách tu hành của ông Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch UBMTTQVN và Lễ suy tôn ngôi Pháp chủ không có gì đơn giản và chóng vánh bằng, Đại hội Phật giáo Việt Nam lần thứ VI cũng đã bế mạc trong những tiếng vỗ tay, trong những suy nghĩ phân ngả, trong niềm vui của người này, nỗi buồn của người kia. Nhưng nói một cách công bằng, Đại hội kỳ này thành công cũng nhiều mà thất vọng thì không phải không có. Và mọi người vẫn đang chờ đợi một cuộc họp tổng kết thực sự để được lắng nghe những người lãnh đạo mới lên tiếng về những mặt được và chưa được đã diễn ra ở đại hội vừa qua…

Chúng ta đã nghe nói nhiều về vấn đề trẻ hóa lãnh đạo từ những bậc lãnh đạo giáo hội trên các phương tiện truyền thông trước khi đại hội diễn ra. Đặc biệt qua những con số cơ cấu có phần khá ấn tượng: 30% là bậc Hòa thượng, 40% là bậc Thượng tọa, 30% là bậc Đại đức trẻ. Nhưng khi nhìn vào danh sách Hội đồng Trị sự GHPGVN nhiệm kỳ VI (2007-2012) được công bố trên báo Giác Ngộ số ra ngày 27-12-2007 mới thấy hết dư vị của những lời phát biểu đó. Danh sách HĐTS GHPGVN nhiệm kỳ VI gồm 195 thành viên (147 thành viên thường trực, 48 ủy viên dự khuyết).
Trong 195 thành viên có 80 Hòa thượng, 64 Thượng Tọa, 33 Đại đức, 6 Ni trưởng, 3 Ni sư, 1 Sư cô, 7 Cư sĩ và 1 Giáo sư. Tính riêng các bậc Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức thì có 177 thành viên: 80 HT = 45%, 64 TT = 36%, 33 ĐĐ = 18,6%. Không kể số Cư sĩ là quá ít ỏi (7 vị, không có nữ cư sĩ), trong khi nhiệm vụ đưa Phật giáo vào nhân gian đáng lý phải được đặt trong trách nhiều hơn nữa ở nơi họ. Nhìn vào con số 10 vị Ni (6 Ni trưởng, 3 Ni sư, 1 Sư cô) mới thấy chúng ta chưa thực sự khuyến khích giới Ni mạnh dạn hơn nữa trong việc dấn thân phụng đạo. Giáo hội rất cần có những hội thảo nghiêm túc về những con số qúa giới hạn này của Ni giới và cư sĩ. Bởi đó là “3/4 Chúng” quan trọng của Giáo hội ở bất kỳ thời đại nào.
Trở lại với con số 45% HT, 36% TT, 18,6% ĐĐ trong nhiệm kỳ này mới thấy nó cách rất xa với những phát biểu ban đầu. Và đáng lý ra khi công bố danh sách này, chúng ta cũng không nên tiết kiệm quá để cho một năm sinh, chức vụ kèm theo để mọi người tiện theo dõi.
Bỏ qua những điều vừa kể trên, chúng ta không thấy được tâm điểm thực sự nổi bật của Đại hội kỳ này, ngoài những bài phát biểu tâm huyết của một số cá nhân, đặc biệt một số bài viết của các cư sĩ trí thức. Đại hội kỳ VI vẫn còn đó những bài diễn văn kể lể, ca ngợi công đức và một chương trình hành động không có nhiều điểm mới nổi bật, mang tính chiếu lệ. Người nói cứ nói, người nghe cứ nghe, và mọi người vẫn trông chờ sẽ có một cú hích vừa và đủ để con tàu Giáo hội có thể ra khơi trong một cuộc du hành mới.
Điều đáng khích lệ ở đại hội kỳ này là chức danh Phó chủ tịch HĐTS đã xuất hiện ở vài ba vị Thượng tọa có tuổi đời còn khá trẻ. Tuy nhiên, điều không mong đợi đã diễn ra ở chức danh Chủ tịch HĐTS, mặc dù chúng ta rất kính trọng Đức Chủ tịch HĐTS GHPGVN, nhưng sẽ rất ấn tượng nếu sau nghi thức suy cử Chủ tịch HĐTS, chúng ta được nghe một lời từ chối và một lời đề nghị người kế vị của ngài. Tuy nhiên, ở một hoàn cảnh không có những bước đột phá nhân sự quan trọng và những gương mặt mới thực sự nổi bật thì thà cứ giữ như cũ, mọi người còn cảm thấy sự “chậm chạp” ấy cũng đáng yên tâm hơn, thay vì cho một vài vị Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS thay thế mà vốn dĩ lâu nay không nhận được sự tín nhiệm của Tăng Ni, Phật tử.
Đó là những điều mong muốn “nếu” phép màu xảy ra. Còn hiện tại thì đã rồi, không thể thay đổi được. Điều đáng nói là GHPGVN vẫn chưa thực sự khuyến khích một thái độ từ chức. Bởi vì Giáo hội không phải là nơi để đề cao danh lợi, không phải là chỗ để tìm kiếm quyền hành chức vụ. Đó là nơi để cống hiến những giải pháp văn hóa tâm linh, để phụng sự chúng sinh và cúng dàng chư Phật.
Nhiệm kỳ 5 năm tuy ngắn ngủi so với một đời người, nhưng trong tốc độ phát triển nhanh chóng ở một nước đang phát triển như Việt Nam thì 5 năm là một thời gian quá dài, nhiều biến động khôn lường. Thời cơ chính là ở ngay thời điểm này đây, nếu không có những điều chỉnh và vận động mạnh mẽ từ bây giờ thì chỉ 5 năm thôi cũng đủ để chúng ta tụt hậu so với xã hội. Chúng ta cứ thử đưa ra một con số thống kê trong 80 vị Hòa thượng trong HĐTS có bao nhiêu vị có thể hàng ngày tiếp cận được với công nghệ thông tin để xử lý các tình huống quan trọng của Phật giáo? Có bao nhiêu những thông tin báo chí, những lời đề xuất, đề nghị lọt được vào tai của những nhà lãnh đạo và được chuyển thành những chương trình hành động cụ thể? Có bao nhiêu những sáng kiến, sáng tạo xây dựng các mô hình từ hoằng pháp, văn hóa, giáo dục, nghi lễ được trở thành những bản thảo quan trọng nằm trên bàn làm việc của những nhà lãnh đạo Phật giáo để từ đó tìm ra một hướng đi thiết thực hơn, sinh khởi hơn…
HĐTS phải là nơi quy tụ những ý kiến đóng góp (dù đôi khi trái chiều, nghịch nhĩ) thì mới có thể có những điều chỉnh thích hợp. Thực sự chúng ta vẫn chưa có những “đánh giá”, “thẩm định” hiệu quả hoạt động của những Ban Trị sự tỉnh thành để mạnh dạn điều chỉnh lại nhân sự tại những nơi có BTS hoạt động không hiệu quả, gây nhiều tai tiếng tiêu cực. Hàng năm, các BTS tỉnh thành cần phải có những chương trình hành động cụ thể chứ không phải hết một nhiệm kỳ, đại hội tỉnh thành diễn ra qua những báo cáo đơn điệu như một công thức của các ban, tiểu ban.
Nhiều những gương mặt trẻ trong nhiệm kỳ VI này cũng là những gương mặt khá quen thuộc với chúng ta. Tuy chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy cơ cấu nhân sự vẫn còn mang nặng tính “cha truyền con nối”, nhưng chúng ta vẫn trông chờ vào những điều mà các cụ xưa nói “con hơn cha là nhà có phúc”, “sinh con rồi mới sinh cha”… Và chúng ta có quyền hy vọng những người lãnh đạo trẻ có thể thoát ra khỏi “cái bóng” của chính mình để mạnh dạn hơn trong những ý kiến phát biểu, cống hiến ý tưởng để xây dựng giáo hội.
Đã không có những thay đổi từ bên trên thì tất yếu phải có những thay đổi từ bên dưới. Không có những thay đổi từ giáo hội thì sẽ có những thay đổi tự phát ngoài giáo hội. Thời đại sẽ thúc đẩy điều đó. Trọng trách nằm ấy trong tay những Tăng Ni, cư sĩ, Phật tử trẻ năng động, sáng tạo, có tâm huyết với giáo hội và dân tộc. Cho nên những gương mặt mới của giáo hội nhiệm kỳ VI có thể cũ về hình thức nhưng nhất định không thể cũ về nội dung. Thời đại không cho phép chúng ta tiếp tục cũ nữa. Bởi giáo hội không phải là nơi để chạy trọt chức vụ. Chức vụ là trọng trách, là nơi thực hiện những tâm nguyện rộng lớn, để dám nói dám nghĩ và dám làm, nếu không phải như vậy thì những người trẻ nên từ chối nó càng sớm càng tốt. Bởi nếu không chúng ta lại giẫm theo bước của người đi trước, cứ ngồi hết năm, hết một nhiệm kỳ, hết hai ba nhiệm kỳ, và rồi chúng ta lại trở thành những người già nua trong tuổi tác, còm cõi trong nhận thức và cách làm, để lại những tổn thương niềm tin và tinh thần nơi 80% dân số là những người con Phật Việt Nam.
Hy vọng “bình cũ, rượu mới” sẽ xảy ra không chỉ ở những gương mặt trẻ mà ở tất cả những nhà lãnh đạo GHPGVN. Hy vọng ấy được đặt vào năm 2008 với Đại lễ Phật đản của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam và những chương trình hành động thiết thực sau đó. Mọi người vẫn mong đợi Đại lễ ấy không chỉ là nơi tôn vinh Đức Phật và những giải pháp Phật giáo cho sự tiến bộ, hòa bình thế giới mà còn là dịp để tất cả mọi người chung sức đồng lòng, đoàn kết trợ giúp nhau, sáng tạo phục dựng lại một lễ hội vui tươi, nhộn nhịp có tuổi đời nghìn năm trên đất nước chúng ta. Để Đại lễ Phật đản thực sự trở thành Lễ hội tôn giáo, lễ hội đường phố mang tính tâm linh lớn nhất trong năm của người Việt.
Tương lai của GHPGVN đang nằm trong tay những nhân sự mới. Chúng ta đang đón chờ những điều chỉnh mạnh mẽ gần nhất và cụ thể nhất.

Trần Điều

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2007

PHẬT GIÁO-THỜI ĐẠI: TRIẾT LÝ HÒN ĐÁ LĂN


“Nước đứng dễ sinh trùng. Đá lăn không rêu mọc”.

Dù muốn dù không, khi chạm đến khái niệm “toàn cầu hóa”, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo đang tiến đến một không gian mới mang tính toàn cầu. Nhận thức toàn cầu là một nhận thức bao quát, vượt ra khỏi những thành kiến về sắc tộc, tôn giáo, tư tưởng để gặp nhau trong một bầu không khí đối thoại, tôn trọng và hiểu biết. Phật giáo là một hệ tư tưởng lớn của nhân loại, nên việc chủ động hội nhập chính là gửi đến thời đại một “nhận thức Phật giáo”, một thông điệp hòa bình, tiến bộ. Nhận thức đó chính là những gì con người thời đại chưa có cơ hội để chạm tới, chưa có cơ hội thấu hiểu và thực hành. Dĩ nhiên, Phật giáo cần cung cấp cho xã hội những phương thức tiếp cận gần gũi hơn, hòa hợp hơn, để mỗi con người có thể tự do lựa chọn cho mình một phong thái sống ích mình, lợi người.
“Nước đứng dễ sinh trùng. Đá lăn không rêu mọc”.
Triết lý đá lăn chính là một triết lý năng động. Nó ngược lại với thái độ ngồi yên và hưởng thụ. Nhiệt huyết và trách nhiệm là cơ sở căn bản để “đá” (thân vững chắc) không mọc “rêu” (những phiền não, bạc nhược, hèn yếu…), để dấn thân làm tăng trưởng những nỗ lực hóa giải, điều chỉnh tốt nhất của con người trước những sự vây bám gắt gao của định kiến, thù hận, ám muội, tự ti, ích kỷ…
Năng động thì không bị động. Không bị động thì có thể đứng thẳng, đối diện với bất kỳ “toàn cầu hóa” nào. Năng động không phải là để thân tâm bận rộn với danh lợi. Bởi thời đại có bộ mặt đổi khác thế nào đi chăng nữa thì những giá trị tốt đẹp căn bản nhất của con người vẫn không phải là “vị kỷ”. Một cái nhìn bao quát và toàn diện về mối liên hệ nhân quả sâu xa, mối tương quan rộng lớn giữa người với người cho phép chúng ta mở rộng mình trước bất cứ thách thức, bất đồng nào, vì thách thức, bất đồng là vấn đề chung.
Trong triết lý đá lăn, chúng ta cần có một niềm tin và sự kiên trì. Niềm tin con người là cơ sở đầu tiên để triển khai triết lý này. Vua Trần Thái Tông từng đặt câu hỏi khi khuyến phát Bồ đề tâm: “Trong ấp mười nhà còn có người trung tín, lẽ nào cả cõi đời lại không còn ai thông minh sáng suốt hay sao?”. Phải để tâm mình luôn luôn có sự hiện diện của người khác, đó không phải vọng tưởng, bởi chấp nhận sự hiện diện của người khác chính là chấp nhận sự tương quan chặt chẽ giữa ta và người, chấp nhận Phật tính giữa ta và người không khác. Bên cạnh đó, sự kiên trì chính là sử dụng hết thân tâm đừng để nó uể oải, lười mỏi, ngay cả khi ta phải sống trong những tình thế tưởng chừng như đơn độc, cô lập. Đó chính là tư tưởng mà quốc sư Phù Vân từng khuyến cáo vua Trần Thái Tông: “Lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình. Lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”.
Sự khai phóng tư tưởng chính là bước vận động linh hoạt của Phật giáo trước mọi diễn biến của thời đại. Và đây cũng chính là yếu tố “độc lập”, “tự do” mà ngoài niềm tin cá nhân thiêng liêng thuộc về một truyền thống, Phật giáo có thể tiếp cận, ra vào trong các tư tưởng khác ở một không gian rộng lớn hơn. Cơ sở lý giải đã có sẵn từ trong lịch sử, đó chính là khả năng: “Hòa mọi vị làm vô thượng vị, dắt quần lưu vào bất nhị lưu”. Từ đó xây dựng con người trên những nguyên tắc tốt đẹp nhất. Đây chính là yếu tố đặc thù để Phật giáo không đi vào con đường cực đoan, không bị thế quyền hóa. Vì mục đích của mọi sự nỗ lực vận động chính là để tiến đến một thế giới nhiều lòng từ bi hơn, nhiều tình yêu thương hơn (đồng thể đại từ, đồng thể đại bi).
Triết lý đá lăn, không mâu thuẫn với sự “an cư”, bởi sự nghỉ ngơi “chân chính” không phải ngừng hết công việc, quên chuyện thế gian mà là điều chỉnh mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để làm sao cho người bận mà tâm không bận, chứ không phải lục căn bất động nhưng tâm lại rộn ràng. Và nếu có thể điều chỉnh hợp lý thì trong công việc đã có nghỉ ngơi, trong nghỉ ngơi đã có công việc. Đó là công hạnh của Bồ tát Thường Tinh Tiến. Khi thân tâm hòa hợp thì “chốn chốn không tung tích, oai nghi ngoài sắc thanh”, biến việc nặng thành việc nhẹ, lấy ít chuyển hóa nhiều…
Phật giáo Việt Nam chỉ là Phật giáo Việt Nam khi tiếp nối tinh thần ấy. Nếu chưa thể hợp nhất thân tâm và hợp nhất những tồn tại còn đang phân hai, phân năm, phân bảy, trong một tình thế hình thành những “giáo quyền” tông phái, vùng miền cục bộ thì không thể có đủ tư cách để để bàn luận về những vấn đề hòa hợp và hòa bình lớn hơn sức lực của mình. Bởi nếu chưa có những điều chỉnh từ bên trong mà hướng ra ngoài quá nhiều thì đó chính là biểu hiện của việc “thêm bướu vào thân”, “đang yên tự chuốc nguy” mà Trần Thái Tông đã nói đến.
“Nước đứng dễ sinh trùng”.
Một sự “tọa vị”quá lâu, một thái độ “ngồi trên” ban phát hiệu lệnh không cần biết đến “ý của thiên hạ”, “lòng của thiên hạ” là dấu hiệu của sự đi xuống, tụt hậu. Triết lý đá lăn không ngăn cản sự tự do chọn lựa, cống hiến và sáng tạo. Đó là nguyên tắc “bất phá bất lập”: không thay đổi và điều chỉnh mạnh mẽ thì không thể đem đến một bộ mặt mới hơn, sinh động hơn. “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” mà Khổng Tử nói chính là “nghệ thuật” quản lý, bởi trong khi đưa một “tay” ra quản lý người khác thì “tay” kia phải quản lý chính mình. Và cách quản lý “vô vi” mà lịch sử nói đến chính là tinh thần “đồng thể cộng sinh”. Thái độ “ta sống nó chết” trở nên lạc điệu ngay cả ở phạm vi đạo đức phổ thông, chứ đừng nói gì đến tinh thần khoan dung của Phật giáo. Muốn được như vậy, những thông điệp của chúng ta hàng năm nên bớt “chia rẽ hơn” và nên khơi dậy tinh thần “sống chết có nhau” như “tinh thần 1963” thì Phật giáo Việt Nam mới có thể tạo lập một kỳ tích trong hội nhập, mới có thể “hòa mọi vị làm vô thượng vị”.
Triết lý đá lăn là triết lý cổ vũ những thế hệ kế cận năng động, dấn thân. Triết lý ấy không khuyến khích sự nghi ngờ, bởi còn nghi ngờ là còn sợ, còn thiếu tự tin. Vua Trần Thái Tông nói: “Trong ảo sắc cũng là chân sắc. Nơi phàm thân cũng thực pháp thân”. Trong quản lý người, đã sử dụng thì không nghi ngờ, đã nghi ngờ thì không sử dụng. Một khi đã nhìn nhau bằng thái độ nghi hoặc thì Phật giáo đang mất đi nội lực chuyển hóa, bởi thực chất nếu những nhà lãnh đạo Phật giáo dùng người bằng nghi ngờ thì chính họ đang xa rời tâm linh và bị “chính trị hóa” trong cách nhìn và nhận thức. Bởi dù gì, cuối cùng chúng ta vẫn là những “người ảo hóa khoe thân ảo hóa”.
Triết lý đá lăn tạo sẽ là điều kiện tạo nên sự nhiệt huyết, niềm vui được cống hiến và thể hiện sức mình. Lòng nhiệt huyết ấy là động cơ hình thành và thúc đẩy lòng trung, sự gan dạ: dám nói, dám nghĩ, dám làm và dám tự chịu trách nhiệm. Không thể hội nhập mà thiếu những con người có “lòng trung thành” (niềm tin thiêng liêng, lý tưởng mà mình đang phụng sự). Người lãnh đạo thiếu bản lĩnh tâm linh chính là người nhiều lòng nghi ngờ, dùng kế sách để thăm dò lòng trung thành của người dưới... Sử dụng những phương cách như vậy sẽ thui chột tiềm lực con người, đó là nguyên nhân của những sự xa rời, chảy máu chất xám, thiếu sư tập hợp, quy tụ.
Triết lý đá lăn chính là trao quyền, trao việc hơn là can thiệp một cách máy móc. Người nhận nhiệm vụ ấy sẽ tự tin làm việc và dũng cảm nhận trách nhiệm về mình. Khéo quản lý được như vậy, thì “đồ tể” sao không thể thành “Phật”, “bại lính” sao không thể trở thành “dũng tướng” ngự tiền. Có bao nhiêu người lúc mới tập tu tràn đầy tính xấu, nhưng nhờ người lãnh đạo yêu thương, từ bi chuyển hóa mà người được tốt lên. Nếu nhìn thẳng vào sự thật thì chúng ta đang thiếu những nhà lãnh đạo tâm linh đúng nghĩa. Và như vậy không thể tạo ra những con người có thể “sớm nghe đạo chiều chết cũng được rồi” (Khổng Tử).
“Đá lăn không rêu mọc” là một triết lý tự điều chỉnh, năng động, mang giá trị nhân văn vị tha. Nếu được vận dụng tốt trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ và tích cực như hiện nay thì câu hỏi: “Trong ấp mười nhà còn có người trung tín, lẽ nào cả cõi đời lại không còn ai thông minh sáng suốt hay sao?” của vua Trần Thái Tông gần như đã có câu trả lời.

Thích Thanh Thắng

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2007

“GIÀN VỮNG TẠI CÂY”


Thiền sư Nhất Hạnh viết: “Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm hại nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ, sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh”…

“Giấc mơ Việt Nam” vẫn chưa thành hiện thực thì Quốc vụ viện Trung Quốc vừa phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa nhằm quản lý các quần đảo trên biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Lịch sử cho thấy, mỗi khi đất nước có nạn xâm lăng, cũng là lúc tinh thần dân tộc của chúng ta có phần lỏng lẻo, niềm tin tâm linh của chúng ta hướng ngoại. Nhưng lịch sử cũng cho thấy sau khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam và tạo ra những tình huống đe dọa bằng vũ lực thì tinh thần đoàn kết của người Việt lại tăng lên gấp bội lần. Những mâu thuẫn, nghịch lý trong đối nội và đối ngoại ấy đã đòi hỏi phải có những điều chỉnh linh hoạt.
Trước mắt, việc cần làm là phân tích hoàn cảnh thực tế của đất nước mình từ đó “rà soát” lại tinh thần dân tộc trong sự chuyển hướng như vũ bão vì mục đích phát triển kinh tế của đất nước và tham vọng làm giàu của người dân. Người Trung Quốc làm sao có thể “biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm hại” khi người Việt Nam vẫn chưa biết thương mến cái đẹp, thưởng thức văn hóa của đất nước mình mà gắng sức bảo vệ, giữ gìn.
Có lẽ vì vậy mà thiền sư Nhất Hạnh đã phải xem đó là một “giấc mơ Việt Nam”.
Tinh thần dân tộc không phải là cái trừu tượng, chung chung mà biểu hiện cụ thể qua ngôn ngữ, ăn mặc, ứng xử văn hóa của người dân. Thử hỏi chúng ta có bao nhiêu phần trăm tính dân tộc được biểu hiện qua những sinh hoạt ứng xử hàng ngày? Những người trẻ hiện đại sống trên mảnh đất này đang chuyển hướng đời sống để làm giàu bằng mọi cách. Và họ đang đẩy cái ý thức, tinh thần dân tộc lên vai một số người đại diện, thậm chí có thái độ thờ ơ, né tránh với những xung động chính trị.
Trung Quốc đã “khôn ngoan” hơn khi chọn đúng thời điểm những phân mảnh đang còn giao thoa trong một hoàn cảnh nhập nhằng của những nghịch lý phát triển Việt Nam mà trắng trợn xâm lăng từng phần lãnh thổ Việt Nam. Có thể nói họ đã đi trước chúng ta một bước trong phát triển kinh tế, và đang cơn háo danh, háo thắng, muốn chứng minh sức mạnh của mình với thế giới, Trung Quốc sẵn sàng đưa tinh thần bành trướng của mình thực nghiệm trên mảnh đất hình chữ S ( người láng giềng hữu nghị luôn mở ra trên miệng và cái bắt tay của họ).
Cụ Phan Chu Trinh viết: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình, thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường….”.
Cái khốn khổ mọi đường của cụ Phan Chu Trinh nêu ra có lẽ cũng không nằm ngoài cái khốn khổ vì phải vong thân ngay trên mảnh đất thân thương của mình. Không điểm tựa tâm linh, không biết phân định thế nào là bản sắc… đã dẫn đến sự “mặc cảm tự ti” về văn hóa, lối sống của không ít người. Trải qua bao thế kỷ dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã có những pho sử hào hùng. Nhưng bao nhiêu điều đó vẫn chưa đủ để lấp đi những hoài nghi giá trị, những thất vọng hèn yếu trong tâm khảm khi không thể hội tụ được tinh thần dân tộc trong sự chế ngự bản ngã, cởi bỏ oan thù và những ôm đồm quyền lực.
“Giàn vững tại cây”.
Nếu mỗi niềm tin, mỗi tư tưởng đều muốn bò ra khỏi cái giàn để tìm kiếm ánh sáng, nguồn nước khác thì cái giàn làm sao có thể đứng vững. Bản lĩnh chế ngự, hội tụ các tiềm lực chính trị, tinh thần (trong đó có cả niềm tin tâm linh) đã có trong những bài học lịch sử. Sức mạnh bên trong là nguồn lực quan trọng để chúng ta ứng đối với bên ngoài. Trung Quốc sẽ không dám bước thêm một bước nào vào lãnh thổ Việt Nam khi cả dân tộc Việt Nam cùng có một niềm tin dân tộc, cùng chế ngự được những tham vọng quyền hành hỗn độn.
“Triết lý xâm lược” của Trung Quốc đối với Việt Nam xuyên suốt lịch sử là triết lý thực dụng, cố đánh chiếm bằng mọi cách và bằng mọi thủ đoạn. Cho nên đó chính là sự nôn nóng, mất bình tĩnh nhất của người Trung Quốc. Những chủ trương “Nho-Pháp” của họ có thể được vận dụng uyển chuyển trong từng thời điểm nào đó nhưng nó vẫn là những hệ thống tư tưởng thiếu những định hướng tâm linh. Do vậy, sức mạnh đó luôn chỉ là nhất thời, để kéo dài thì chắc chắn sẽ thất bại. Nếu không như vậy thì tư tưởng Phật giáo sao có thể thâm nhập sâu rộng để làm nên một cuộc hòa giải lớn trong tư tưởng Trung Quốc.
Nhìn “cách làm” của Trung Quốc mới thấy tham vọng bành trướng lãnh thổ của họ chỉ là bề mặt nổi còn tham vọng đồng hóa văn hóa của họ mới là tảng băng chìm. Hơn một lần dân tộc Việt đã phải thấm thía bài học ấy. Bởi mảnh đất này là tâm điểm của rất nhiều tham vọng đồng hóa của cả Đông lẫn Tây. Nhưng về thế thuật, Trung Quốc là một thứ bành trướng cộng sản “khôn khéo”. Họ không lo sợ của cải không được chia đều và họ cũng không lo sợ rằng sẽ không có một mô hình xã hội toàn hảo không còn người bóc lột người (vì thực tế họ hiểu không thể có chuyện đó) và họ cũng không lo sợ khi người ta bảo cộng sản Trung Quốc biến thái khi có những hành động không cộng sản ngay cả với người láng giềng cộng sản của mình.
Không nói chuyện đúng sai của thuyết duy vật thì cũng thấy rằng nó chẳng có giá trị gì nhiều trong quy luật thị trường và hoàn cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trung Quốc hiểu rõ điều ấy hơn ai hết. Chính vì vậy họ không bao giờ vui mừng như Việt Nam khi công bố rằng nước mình chỉ có 20% người dân là có tôn giáo (trong khi sự thực phải có đến 80% người dân theo đạo Phật và có tín ngưỡng đạo Phật).
Nay nhìn người Trung Quốc xâm lăng và nghe những tiếng nói phản ứng yếu ớt gần như vô vọng của mình mà không khỏi chạnh lòng. Nhưng đây cũng là thời gian để người Việt có thể bình tĩnh, tỉnh táo nhìn lại mình, xem mình đã bỏ quên những gì trên hành trình đi tìm thân phận Việt, đã sống, đã yêu thương nhau, đã đoàn kết để bảo vệ cương thổ, văn hóa tâm linh của dân tộc mình như thế nào? Những người trẻ Việt Nam đang còn mải vui ở đâu trước sự kiện này?
Bao nhiêu mái chùa, bao nhiều đền thờ Thành Hoàng, bao nhiêu bàn thờ tổ tiên còn hiện diện trong mỗi gia đình là bấy nhiêu chứng tích tâm linh của những công cuộc chống ngoại xâm và mở mang bờ cõi. Nền văn hóa, tâm linh thích hợp với đại đa số nhân dân chính là nền tảng sống động nhất trong đối kháng văn hóa với bất kỳ thế lực ngoại bang nào. Đó chính là biểu hiện trong sáng và thiết thân nhất của tinh thần tâm linh dân tộc. Tâm linh dân tộc là một thứ quyền uy siêu việt mà từ Trung Quốc đến Pháp, Mỹ cho dù dùng đủ mọi cách đều không thể làm tắt đi sức sống mãnh liệt ấy. Còn chủ nghĩa duy vật từ lâu đã sống vật vờ và xa lạ với tinh thần và niềm tin ấy.
Nhưng nếu người nông dân mất đi Phật tâm, mất đi Thành Hoàng và mất đi ông bà tổ tiên thì người nông dân ấy đã mất đi hơn một nửa tâm hồn mình, mất đi không gian thần thiêng nơi mình trú ngụ. Vì sao, vì từng mảnh đất cấy cầy, từng hạt gạo thơm ngon đến hoa trái bốn mùa đều là ơn của thần Phật. Thế nên mỗi khi thu hoạch mùa màng, người dân lại không quên cúng tạ thần Phật. Và cũng chỉ có nền tảng văn hóa tâm linh ấy mới đủ rộng lớn để bao dung và chở che cho dân tộc. Nên mỗi mảnh đất Việt Nam đều trở thành quê hương, nơi mỗi hình hài được sinh ra, được nuôi dưỡng. Nơi tình thương của ông bà, mẹ cha hiện diện. Nơi tuổi thơ gắn với những hình ảnh thiêng liêng về ông Bụt, bà Tiên và những huyền thoại về sự hiển linh của Thành Hoàng, Chúa xứ… Và nó còn thiêng liêng hơn khi đi bất cứ đâu, người ta cũng đau đáu nỗi niềm nhớ thương và mong được trở về an nghỉ sau khi xế bóng, mãn phần.
Tâm linh Việt thấm trên từng mảnh đất Việt. Mái chùa Việt che chở tâm hồn Việt. Chỉ có chấn chỉnh và làm mới lại những điều đã bị bỏ quên từ trong tâm thì mới mong không gian Việt rộng lớn hơn, để người việt có thể cắm mốc tâm linh của mình ngay ở bất cứ một nơi xa lạ nào.

Thường Trung

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2007

ĐẰNG SAU HẬU HIỆN ĐẠI…


Đứng ở mặt “lập thuyết” hậu hiện đại cũng phải đưa ra những “kết luận”, mà hình như những kết luận ấy mâu thuẫn với chính nó. Song hiện đại là cái còn ở phía trước thì hậu hiện đại cũng không phải đích đến cuối cùng cho một danh xưng (giả danh) “hậu hiện đại” mà vốn dĩ cái gì có “hậu” thì có “tiền”. Đằng sau vòng đối đãi, đằng sau hậu hiện đại là cái “đang yên”, là “mê ngộ bất dị”…, và vì thế chúng ta hãy khoan dung mà nhìn thế giới như là một định nghĩa mở…

Trào lưu hậu hiện đại ra đời trong không khí “đối thoại nóng bức” kéo dài của không ít các chủ thuyết, mà chủ thuyết nào cũng chứng tỏ tính chất ưu việt của mình qua phẩm chất nhân văn, khoa học - một phẩm chất nhất định phải có để đưa các chủ thuyết đó lên tầm “cách mạng” và “tiến bộ” hay trở thành kim chỉ nam cho hành động và tư duy của loài người. Bỏ qua những tranh cãi, bất đồng về nguồn gốc, khái niệm, cảm quan, tư tưởng…, trào lưu hậu hiện đại vẫn đang tồn tại giữa một thực tại đa tầng, đa dạng, đa chiều… Trong sự “chối từ” mang tính văn hóa, người ta có thể khôn ngoan nói: “kính nhi viễn chi”, còn trong cái gọi là ý thức hệ tư tưởng hay đấu tranh tư tưởng, nếu chạm đến điều gì không thể hiểu thì người ta thường phủ nhận hoặc đánh đổ khái niệm… Cũng như bao trào lưu, chủ nghĩa khác, hậu hiện đại đang sống trong trong tình trạng “lắm kẻ yêu, nhiều người ghét” từ nhiều cách hiểu. Tuy nhiên, cái được gọi là hiểu thì không phải lúc nào cũng là hiểu đúng và hiểu một cách khách quan, công bằng. Điều đáng nói là trong khi hậu hiện đại vẫn “bao dung” chấp nhận và bênh vực cho những cách “hiểu sai” của con người thì không ai muốn tự phong cho mình cái “quyền được hiểu sai” cả, vì những cái đã được tôn vinh là “chân lý” thì không thể sai lầm. Và như thế, mâu thuẫn có thể được hiểu rằng trong phủ định có phủ định, còn trong thực tế thì không ai lại ngây ngô tự phủ định mình để xiển dương cho cái “quyền được hiểu sai” như là một chân lý luôn luôn đúng, nhưng rất khó để người ta phân biệt được thế nào là hiểu khác và thế là hiểu sai. Nếu khôn khéo quá trong việc biện luận, rất có thể người ta sẽ rơi vào tình trạng “nhận vơ” trong nhận thức, có nghĩa rằng “vơ” tất cả những tốt đẹp về mình còn sai trái là của người khác.
Hai vấn đề lớn mà hậu hiện đại đưa ra là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất và sự hoài nghi các văn bản lớn.
Lý thuyết phi lý tính xuất hiện cùng với những trạng thái tâm lý mất định hướng của châu Âu đã nảy sinh quan niệm “cái chết của châu Âu”, “cái chết của Thượng Đế” hay “sự giãy chết của Chúa”. Cũng lúc ấy, người ta hiểu rõ rằng, triết lý, văn hóa phương Tây không phải là hình mẫu của nhân loại. Và trong những cơn buồn nản, chán chường, chưa nhận biết được các giá trị thực cuộc sống, khuynh hướng thoát ly của thời đại mà châu Âu được soi sáng bởi lý trí và khoa học kỹ thuật lại không có gì khác hơn cái vẻ thực dụng của một nền văn hoá, văn minh sản xuất và tiêu dùng. Người ta bắt đầu có cảm giác “buồn nôn” về chiến tranh, bạo lực, sex và sự cuồng tín tôn giáo. Thế là người ta mò mẫm đi tìm ở những xứ sở mà người phương Tây đã “khổ công khai hoá” những giá trị về văn hoá, tâm linh và một đời sống tinh thần (trong con mắt của họ là đầy tính chất huyền bí). Hàng loạt các nhà khoa học, triết học, tâm lý học… đã tìm đến các giá trị phương Đông như một sự chuộc tội, một lời sám hối chân thành để có thể tìm cho phương Tây một giá trị, hóa giải sự độc đoán của những điều “duy nhất” còn tồn tại trong cách nghĩ. Trước đó, người ta đã nhìn nhận một cách sai lầm về vấn đề tha hoá và bản ngã, phục sinh và tái sinh. Người ta tôn sùng những trật tự “định mệnh” đã được bày đặt sẵn cho mỗi con người và mỗi dân tộc. Và song song tồn tại với sự tôn sùng đó, ở bên kia bức tường là hàng loạt các định đề, quy luật… mà lâu nay đã làm cho con người trở nên “tỉnh táo”, tỉnh táo đến mức lạnh lùng, vì nhìn vào đâu họ cũng thấy khoa học, vật chất, đấu tranh giai cấp, lợi ích kinh tế, lợi ích giai cấp… Lẽ dĩ nhiên, họ có quyền tự phong cho mình khả năng nắm rõ các quy luật của thế giới. Tuy nhiên, bản ngã, của cải, quyền uy, cuồng tín tôn giáo…và các phương tiện phục vụ chung quanh nó đã kéo lùi các giá trị thẩm mỹ và tinh thần nhân văn. Người ta bắt đầu cảm thấy ngột ngạt trong các bức tường của chủ nghĩa duy lý, của tư duy logic, khái niệm… bởi tâm linh, tinh thần con người cũng được giản lược hoá, sơ đồ hoá và có thể “biện chứng” được, phân tích được, chia chẻ được, thậm chí người ta có thể “duy vật” ngay cả trong lĩnh vực tâm linh con người.
Phương Tây như một người khổng lồ ngồi trên chiếc chiếu văn minh vừa cỡ để “phán xét” toàn thế giới. Đáng tiếc, người khổng lồ ấy được sinh ra bởi một thứ gien di truyền đặc biệt, mà bấy lâu nay khi nói đến họ là người ta nghĩ ngay đến sự “lớn xác”. Gần hai phần ba thế giới này có lúc phải sống trong không khí của vô số các tội ác chiến tranh phi nhân tính mà tâm điểm của nó được núp dưới danh nghĩa: kinh Thánh, văn minh và vàng bạc.
Nhìn nhận vấn đề trên, chúng ta mới hiểu lý do tại sao các nhà lý luận hậu hiện đại lại phê phán cả nền khoa học thực nghiệm lẫn truyền thống văn hóa, tôn giáo phương Tây. Họ cho rằng những cái gọi là lương tri, lòng bác ái, nhân quyền, tự do… cũng chỉ là những sản phẩm giả tạo và lỗi thời cuả chủ nghĩa duy lý. Đó chính là sự lật lọng khôn khéo, nói một đằng làm một nẻo. Từ lâu, dấu hiệu “bất tín nhận thức” đã xuất hiện từ chính những đổ vỡ trong nhận thức của Sartres, Nietzsche, Heidegger, Foucault… Nói như A. Megill: “Đó là sự đánh mất những chuẩn mực thông thường về Chân - Thiện - Mỹ, những chuẩn mực có uy tín và được lý trí chấp nhận. Sự mất mát này cùng lúc kéo theo sự mất mát niềm tin vào lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh”.
Trong sự nỗ lực tột cùng của khám phá khoa học, kể cả khoa học về sinh lý và thần kinh, phương Tây không dấu được một tham vọng thiết lập một mô hình thế giới mới bằng vô vàn các công cuộc “khai sáng”, để thế giới trở thành một bản sao đúng nghĩa phương Tây: “Ăn kiểu phương Tây, mặc kiểu phương Tây, ở kiểu phương Tây, ngủ kiểu phương Tây, nói cười kiểu phương Tây…”. Và như vậy, xét về mặt bản chất của tham vọng thì phương Tây vẫn nằm trong môi trường “trời sinh tính”. Nhưng nếu ai tỉnh táo một chút sẽ thấy cái gọi là thiết lập trật tự văn hoá bằng tiêu chuẩn phương Tây, chẳng khác gì muốn nói rằng cái “trật tự đã định” ấy chính là sự bôi nhọ ý thức, không phải khai sáng… Như vậy, những hình mẫu được khám phá trong tột cùng của khoa học, tôn giáo ấy là con đường đi đến kết luận ban đầu của chủ nghĩa độc quyền trong nhận thức. Những khuôn mẫu ý thức trong cuộc sống, từ lĩnh vực kinh tế đến tinh thần đã biến con người trở thành các công cụ được lập trình, được số hóa…
Con người bị từ chối, tri thức bị từ chối, ý thức bị từ chối và chính bản thân con người cũng bị từ chối khi mỗi ngày một trở thành những cái máy viết, máy nói, máy hành động, máy tư duy… Ở đây phần nào hậu hiện đại có lý khi muốn vượt ra khỏi ý thức thẩm mỹ đại chúng để kêu gọi sự sáng tạo và khước từ nghệ thuật hiện thực. Điều này cũng có nghĩa rằng khước từ những cái được gọi là “văn bản lớn” trong văn hoá, nghệ thuật, để mở ra một nền nghệ thuật “như nó” chứ không phải nghệ thuật “phải là”. Sự lừa phỉnh của giác quan và ý thức đang cố tạo lập ra các trật tự tưởng chừng như có lý nhưng hết sức phi lý, nếu không nói là một sự áp đặt nguy hiểm lên ý thức thẩm mỹ của con người. Điều này được Tuệ Trung Thượng sĩ ví như người “đang yên lại chuốc nguy”, bởi cái “đang yên” ấy thực chất không duy lý, không nhân ngã, thọ giả, không chúng sinh Bồ đề, không mở đầu kết thúc. “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong lý Bát Nhã là phản đề đánh vào nhận thức về sự tha hoá và sự mất giá của các khái niệm. Chúng ta phải thoát ra khỏi sự bao cấp nhận thức về một lối tư duy cho rằng chân lý của kẻ mạnh, của cái đang phổ biến luôn luôn là đúng, mặc dù chúng ta phải rất khó khăn để xác định từ “đúng” này giữa vô số ảnh hưởng của các “văn bản lớn”. Thiền sư Quảng Nghiêm không ngần ngại nói rằng: “Giẫm bước Như Lai luống nhọc mình”. Tuệ Trung Thượng sĩ cũng xem việc bày đặt ra sự “truyền tâm” chỉ là mang bệnh. Như vậy thiền đã làm một cuộc phiêu lưu mạo hiểm từ một ý thức tồi tệ nào đó về hiện thực được sắp đặt hoặc bị bắt chước, nhại lại để tìm đến một thực tại như tính, vắng bặt mọi lý luận và tư duy khái niệm, để thoát ra khỏi cái gọi là “quyền lực của văn tự” và sự phản ánh. “Bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm”… đã cảnh báo về một cái chết bất ngờ của lý luận. Bởi vì lý luận không thể tự giết chết nó khi nó vừa sinh ra, mặc dù nó có thể đầy dị tật. Bước quá độ, cao trào và thoái trào của một hệ tư tưởng đã buộc người ta phải xét lại “chủ quyền chân lý” của nó. Điều đó khiến các nhà hậu hiện đại phải lo lắng về “Thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất”. Như thế chúng ta cần phải xem xét lại toàn bộ những tri thức mà chúng ta đã và đang được giáo dục, và phải chăng nền giáo dục ấy đang mất căn bản trong chính điều phải làm là tôn trọng con người qua những những tuyên bố to tát về tự do và nhân quyền.
Chúng ta đang được khai sáng hay chúng ta đang tự thêm bướu vào thân? Câu trả lời vẫn là “đang yên tự chuốc nguy”. Dẫu sao thì “sự hoài nghi các siêu văn bản” mà các nhà hậu hiện đại đưa ra cũng có giá trị thiết thực trong thời đại có quá nhiều người xem khoa học như một thẩm quyền định giá con người là “tiến bộ” hay “lạc hậu”, thậm chí còn xem khoa học như là điều kiện làm nên con người thời đại đúng nghĩa văn hóa.
Sự hoài nghi này đòi hỏi người ta cẩn thận chớ đem cả thân mệnh mà cả tin vào tri thức, nhất là vào thực nghiệm khoa học… vì một ngày nào đó sự cả tin ấy sẽ loại “cái biết” ra khỏi “người biết”. Một nhà khoa học có thể bằng các phương tiện khoa học tìm ra một thiên hà khác, và cũng bằng các phương tiện đó mà diễn tả lại cho mọi người biết về những phát kiến của mình. Song đó chỉ là một thứ khoa học quan sát bằng mắt, mọi người đang nhìn một hình ảnh của quá khứ và biết đâu ngay trong lúc mọi người quan sát thì thiên hà ấy đã thay đổi và có thể mất dạng. Và như vậy, cái biết gọi là khoa học ấy chỉ là cái biết dựa trên một cái thấy không vững chắc. Do đó cái biết ấy thực sự vẫn là không biết gì cả, vì cái thấy của 100m và cái thấy của 5 tỉ năm ánh sáng cũng chỉ là một cái thấy thô thiển không khác. Theo kinh Duy Ma, cái thấy ấy dù có “thần thông” nhưng cũng không phải chân thiên nhãn, vì nó không thấy pháp giới là “bất nhị” không có hai tướng, là như thị bản nhiên, là dung thông vô ngại. Như vậy, cái thấy biết ấy không thể là cái thấy biết để đảm bảo rằng họ là những đại diện thực thụ của tất cả chúng ta, bởi mọi hiện hữu không phải là vấn đề mà vấn đề là nhận thức của chúng về hiện hữu ấy. Và do đó, không thể có một thực tại nằm ngoài cái thấy cái biết, có nghĩa rằng đối tượng quan sát và người quan sát phải nằm trong vòng duyên khởi, trong các mối tương quan. Không có điều kiện này, thực tại không thể được xác lập, huống hồ là cái biết của chúng ta hôm nay về thực tại ấy không phải là cái trước đó và cái biết sau này về thực tại. Đó là chưa kể đến cái biết của chúng ta là cái biết về mặt tỷ lượng (so sánh), nó khác với cái biết như thị bản nhiên, vì như thị bản nhiên thì không phải là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nó là tịch diệt tướng.
Như vậy các nhà hậu hiện đại có vẻ như chối bỏ khoa học nhưng thực sự họ chỉ muốn chúng ta thoát ra khỏi tình trạng bị áp đặt nhận thức. Có nghĩa rằng việc chúng ta nhờ khoa học phát hiện ra một mầm bệnh ung thư nào đó trong cơ thể, không có nghĩa rằng mầm bệnh đó là định mệnh của cuộc đời chúng ta, trong khi chúng ta còn nhiều cách thoát khỏi tình trạng có vẻ như tồi tệ đó bằng những nhận thức đúng đắn về sống - chết. Như vậy cái thẩm quyền được công bố về những vấn đề chung quanh cuộc sống con người không thể tuyệt đối thuộc về khoa học, trong khi nhiều người say mê nó đến mức có thể tin như thế, thậm chí họ tin rằng có thể định mức được tâm linh. Lyotar cho rằng: “khoa học lấy đúng làm đích, loại trừ những cái được gọi là sai”. Như thế cái gọi là khách quan khoa học ấy vẫn chỉ là những luận điểm của rất nhiều các tập hợp có thể chứng minh được chứ không phải là tất cả đều chứng minh được. Và chỉ một điều chưa hoàn toàn có thể là sai lầm của biết bao nhiêu giả thiết chủ quan. Người ta không thể cho mình quyền áp đặt khi cái biết về thế giới chỉ dừng lại ở mức độ tối thiểu về cái gọi là thế giới quan vật chất, còn về lĩnh vực tâm linh, tinh thần con người thì những khám phá khoa học cũng chưa có tiến bộ nào đáng kể, mặc dù đang cố gắng mò mẫm vào tầng sâu của vô thức.
Có một người mất tích nhiều năm, sau khi trở về, anh ta kể lại cho mọi người nghe rằng anh ta đã được sống ở trên thiên đường (trong kinh nghiệm tâm linh của anh ta chứ không phải qua miệng của những thầy tu). Mọi người có thể tin hoặc không tin lời anh ta. Có thể anh ta đã mắc bệnh thần kinh, bệnh tưởng… cũng có thể là một kinh nghiệm cá nhân nào đó mà anh ta đã trải qua… Nhưng cho dù thế nào nó cũng là một thông điệp của ngôn ngữ mà sau cuộc trở về anh ta tường thuật lại. Nếu anh ta không trở về hoặc giả anh ta không nói lại thì tất cả cái gọi là kinh nghiệm ấy thuộc về riêng anh ta vì chẳng có sự kiện nào được chứng minh. Cho nên nó là phi khoa học, tuy nhiên anh ta không cần khoa học mà vẫn hưởng thụ được một “thiên đường” chí ít là bằng kinh nghiệm tâm linh nào đó của chính anh ta. Anh ta vẫn có quyền được hạnh phúc trong khi rất có thể người khác cho rằng anh bị điên. Như vậy chỉ có thể là hoặc anh ta điên thật hoặc mọi người chung quanh điên thật. Đây chính là cái quyền “sai” mà các nhà hậu hiện đại đưa ra… đáng tiếc chúng ta nhìn nhận vấn đề này không bằng tinh thần của hậu hiện đại mà bằng sự tư duy logic và chia chẻ khái niệm bằng thao tác của một nhà ngữ nghĩa học không phải bằng thao tác của một nhà triết học… Thế nên họ phê phán “bất luật” của hậu hiện đại là thủ tiêu gianh giới “đúng - sai” trong khi đó là một phẩm chất mới của hậu hiện đại. Đây cũng chính là những cách hiểu máy móc khi người ta nghiên cứu về thiền. Thiền không cần phải là hậu hiện đại, hậu hiện đại cũng không cần phải là thiền, nhưng có thể nhìn nhận hai vấn đề trong sự tương chiếu nhất định thì chúng ta có thể bắt gặp Lyotard trong dáng dấp của một “thiền sư” và gặp Tuệ Trung Thượng sĩ trong vai trò của một “nhà hậu hiện đại”.
Có thể nói, sự “bất tín nhận thức” của hậu hiện đại không dừng lại ở phạm vi khái niệm mà Lyotard đã sử dụng mà hơn hết nó là một thực tiễn cho một cách nghĩ có khả năng khai phóng cho một tư tưởng tự do, và hiển nhiên nó khiến cho các chủ thuyết khoa học phải suy nghĩ. Điều đó là một phản đề thành công. Quyền được sai mà các nhà hậu hiện đại đưa ra không phải nằm trong sự phủ nhận đúng- sai theo kiểu nhận thức xã hội học hay đạo đức mà chính là cái sai nằm trong phạm trù triết lý hay nói một cách văn vẻ hơn, đó là cái sai của cõi người ta, không ai có quyền phủ nhận nó - một cái “sai” bản lai diện mục của pháp giới.
Phương Tây đã phải sống trong một thời gian dài của tư tưởng độc thần và sau đó là hàng loạt các chủ thuyết biên kiến (duy tâm, duy vật, duy lý, duy cảm, duy linh…). Tất cả đã tạo nên một không khí ngột ngạt và kể từ thế chiến thứ hai, con người trở nên mất phương hướng, không còn giá trị để bám víu, và sau đó là sự cảnh báo về một “thời đại mất Chúa” và cái “giẫy chết” của châu Âu. Ảnh hưởng này lan rộng vào nhiều phạm vi kinh tế, chính trị, xã hội… Như vậy, sự bất tín văn bản lớn hay đánh đổ độc quyền chân lý đã hiển nhiên làm xuất hiện một “thời cơ hậu hiện đại” hay “điều kiện hậu hiện đại” để họ có thể “cởi mở” hơn trong nhận thức. Đối với nền triết học duy lý phương Tây, đây là “một cuộc cách mạng trong nhận thức”, mặc dù đối với nền triết lý phương Đông (cụ thể là thiền học) đây chưa phải là một điều mới mẻ. Với khả năng thấu thị về một thực tại như tính, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm… con người không phải đặt chân vào một thế giới vô nguyên tắc của chủ nghĩa tự nhiên “vô thần” mà là bước chân vào thế giới viên dung vô ngại, vượt ra khỏi vòng phân biệt, vì chừng nào còn phận biệt nhị kiến và tự xem mình là độc quyền chân lý thì chừng đó sau cái ôm hôn, bắt tay vẫn là bom đạn, hận thù.
Chúng ta không quá mất nhiều thì giờ vào việc tranh cãi khái niệm hậu hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại, khuynh hướng hậu hiện đại, cảm quan hậu hiện đại… mà bỏ quên việc sử dụng ngôn ngữ khái niệm như một phương tiện để minh chứng cho một thời kỳ phát triển “tột đỉnh” của khoa học kỹ thuật và những cuộc khủng hoảng toàn diện kèm theo nó. Nói một cách vắn tắt, nó chỉ đánh dấu cho một cột mốc của những điều đang mất giá và những điều cần phải “xét lại”. Cho dù thế nào, hậu hiện đại cũng cần một sự hiểu, hiểu về một hệ thống lý thuyết phi cấu trúc trong ngôn ngữ mà đâu đó người ta đã nói đến. Cũng chỉ có thế, người ta mới hoá giải được cái bi đát, cái tàn mạt, cái nực cười, cái buồn nôn, cái cực kỳ phi lý và cái khổ của con người khi họ đang cố gắng đối mặt để vượt ra, cái mà trước đó Nietsche gọi là “hố thẳm hư vô”.
Hậu hiện đại không cần một sự bênh vực trong khi nay mai nó có thể lỗi thời hay bị giết chết trong các mối quan hệ mang tính loài. Có thể chúng ta không nhìn nhận hậu hiện đại như là một đòi hỏi gắt gao phải phá vỡ hoàn toàn cấu trúc của các chủ thuyết hay các văn bản lớn mà nhìn nó như một trò chơi ngôn ngữ. Chúng ta có thể hỏi như một công án thiền:
-Thế nào hậu hiện đại?
-Cái chổi cùn.
-Chổi cùn là cái gì?
-Hậu hiện đại.
-Vậy thế nào không phải hậu hiện đại cũng không phải chổi cùn?
-Hậu hiện đại.
Trò chơi ngôn ngữ chứ không phải trí thông minh. Chỉ có hậu hiện đại, chỉ có thiền sư ngồi thiền chứ không có hậu hiện đại hay thiền sư ngồi thiền một cách rất khoa học, rất tôn giáo... Khoa học là một khái niệm, một định nghĩa hay là một giả thiết cần chứng minh? Viễn ảnh tương lai của con người là gì? Khoa học đang chứng minh chính nó trong một cái vòng luẩn quẩn của tri thức. Cần nhìn hậu hiện đại như một trạng thái tinh thần “mất giao tiếp”, “bất tín nhận thức”, “khủng hoảng quyền uy”… Do đó con người không cần phải nhận thức thế giới theo các dữ kiện của khoa học, bởi vì nó chỉ là những thực nghiệm bị điều kiện hoá, công cụ hoá…. Thiếu vắng những thứ đó, ngũ quan chỉ còn là chiếc kính mờ và bó rọ trong không gian ba chiều. Nó chưa thể chiếm lĩnh thực tại bằng trực giác hiện lượng như một cái thấy đầu tiên về sự vật và khả năng thấu thị, bừng ngộ trong sát na đầu tiên về hiện hữu…
Hậu hiện đại phủ định khoa học là phủ định một kiểu định hướng nhận thức phi lý, chỉ biết quay chung quanh một tâm điểm, những tri thức đã được bày biện sẵn của cái gọi là hệ tư tưởng quy chiếu với mục đích khai hoá, phán xét, làm chủ… Thực ra cái gọi là khai sáng, nhân văn… mỹ miều ấy cũng như bao nhiêu thứ khác, cũng là những thứ nhân tạo, nhân bản của những ý thức độc quyền, độc thần…, những thứ xét về mặt đạo đức là lỗi thời và đầy rẫy những sai lầm, áp đặt. Đối với Lyotard hậu hiện đại là kết quả của sự sói mòn đức tin vào những “trần thuật lớn”. Tri thức loài người lâm vào tình trạng không lối thoát vì nó vẫn không chịu rơi vào sự “phản tiến bộ”, “phản nhân nhân” như là một phạm trù triết lý của một hệ luận suy song hành với nhân văn và tiến bộ. Như thế nó cố gắng tiến gần đến phạm trù đạo đức, một phạm trù cón quá nhiều mơ hồ và phi lý của những chứng thực đã trở thành quy chuẩn, bày đặt. Các thiền sư chỉ nói cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Không có bóng tối không ai thấy ánh sáng là ánh sáng cả. Thế nên cái phi khoa học chỉ là khái niệm phi khoa học, nó không phải là cái bị phủ định sạch trơn, nó không phải là cái đối đầu, nó là hoà điệu trong một sức mạnh âm thanh vô tự tánh. Sự lầm lẫn lớn nhất trong nền văn hoá, văn minh phương Tây chính là lấy tiêu chuẩn của khoa học và thần quyền để tự phong cho mình cái quyền thống lĩnh nhân loại. Có thể nhân loại đang huy động trí tuệ của mình để tìm ra những cái nhất, nhưng nếu tất cả đều quy về khoa học và thần quyền như quy về một cái nhất, vậy thì cái nhất đó quy về đâu? Quy về tánh không chăng? Nó không có quê để về, như vậy “phải chăng văn hoá, tôn giáo được mọc lên từ khoảng trống và chính khoa học cũng mọc lên từ khoảng trống?”. Điều đó thì nóng lạnh tự biết. Fokkema cho rằng: “Bất cứ ý đồ nào nhằm tái lập một mô hình thế giới đều là vô nghĩa lý”. Thực tại như tính là thực tại chối bỏ sự an ủi của cái đẹp và sự đồng thuận trong thị hiếu, nhận thức thẩm mỹ. Đánh mất sự “đồng tình” không phải để tôn vinh sự “bất đồng” như là một cái gì đó ương ngạnh, phá bĩnh mà để nhìn nhận sự “bất đồng” như là cái quyền tự do trong nhận thức và thể hiện. Sự theo đuổi của chúng ta về một thế giới toàn trị, toàn lý chính là một phi lý lớn nhất mà theo Flaubert nó chỉ là những “ý tưởng lượm lặt được” khi trí thông minh của con người trở thành các thao tác kỹ thuật, và như vậy, chính nó là vũ khí huỷ diệt còn người cùng toàn bộ nền văn hoá nhân loại. Con người đang rơi vào tình trạng “ngu đần” bất tận trong những văn bản lớn, hay các “bách khoa chân lý”, điều đáng nói là, mặc dù được tắm táp thường xuyên trong đó nhưng lương tâm bất kỳ lúc nào cũng có thể nhen nhóm sự bạo tàn khi lợi ích bị xâm phạm. Nhà khoa học có thể nhận biết ra rất nhiều loại vi khuẩn có hại và tìm cách tiêu diệt nó, nhưng nhà khoa học không phải là người nhận biết được những vi khuẩn tham - sân - si của chính mình. Và như vậy, khoa học chưa phải là khám phá thực thụ, có điều sống trong hào quang của khoa học lâu ngày, nhiều người đã tự may cho mình chiếc áo khoác kiểu “Kitsch” như một “cấu trúc” của phẩm giá.
Hậu hiện đại không phải là những tai biến ẩn ngầm đang còn ở phía trước. Phải chăng nó là một sự tái sinh, bình mới rược cũ, và nó mang đến một thay đổi nhất định trong cấu trúc cảm xúc hay khả năng nhìn lại thế giới. Nhưng nếu hậu hiện đại là cái phải là, nó cũng sẽ chết.
-Đạo đức là gì?
-Ba cân gai
-Văn hoá là gì?
-Ba cân gai.
-Hậu hiện đại là gì?
-Que chùi phân…
Cái “có thể là” và cái “không thể là” có thể xuất hiện trong ngôn ngữ hỏi đáp trên nhưng nó không gây ra một ảo tưởng trong nhận thức. Hậu hiện đại là một pháp, que chùi phân cũng là một pháp, nó chẳng gợi nên điều gì khi cái thấy biết đầu tiên chạm tới nó. Nhưng nó sẽ là ma quỷ thánh thần, là thanh tịnh nhiễm ô khi người ta khởi niệm phân biệt đúng-sai, yêu-ghét. Không thể đơn giản rút gọn hậu hiện đại vào những phạm vi giới hạn của lịch sử, văn hoá, chính trị, tâm lý, đạo đức, ngôn ngữ… bởi hậu hiện đại cũng chỉ là một trò chơi khái niệm trong đó vắng mặt sự phục tùng vĩnh cửu vào chân lý khoa học và cả thần quyền. Sự chấp nhận “uy tín” một cách vô điều kiện trong khi chính mình thiếu khả năng thực nghiệm chính là đưa cuộc sống của mình cho một người dẫn đường mù, vì thế sẽ không tránh khỏi tình trạng sa vào hầm hố như kinh Pháp Hoa đã dẫn dụ. Điều này ta có thể thấy trong tuyên bố của Nietsche, rằng những khám phá khoa học chỉ là “sự lừa phỉnh vĩ đại” vì con người luôn mong ước được giao phó tâm hồn và thể xác mình cho những phát minh ấy và ảo tưởng về một sự bất tử mà nó có thể đem lại.
Tại sao tri thức khoa học thực nghiệm rơi vào sự mất giá, bất tín và cần phải xét lại? Vì nó chỉ là sự khám phá phiến diện và không có đủ một cở sở kết luận nào để đảm bảo cho sự tiến bộ toàn diện của con người trong tương lai, nó đang tạo ra những “khả năng vô hồn”. Các triết gia, các khoa học gia là ai? Họ không phải con người? Câu hỏi có vẻ như nực cười ấy có chứng minh gì cho những thời điểm lịch sử khoa học phát triển mà ở đó con người tàn bạo hơn cả thú vật. Có thế thôi, chỉ một chữ “nghi” hiện diện trong thế giới mà nhiều giá trị và trật tự đang được thiết lập là có khả năng cứu rỗi con người. Các nhà hậu hiện đại gọi là “bất tín nhận thức”, “hoài nghi triết lý”… Và nói theo Nietsche con người lại tiếp tục lên tàu ra khơi cho một cuộc viễn du mới. Rất có thể sẽ có điểm đến nào đó ở phía trước nhưng cũng có khi lên tàu thì dễ mà bước xuống thì khó. Nhiều người cho rằng hậu hiện đại đang tạo ra sự hoang mang về một ngõ cụt của tri thức nhân loại, vì cái gọi là hiện đại vẫn còn ở phía trước. Một “hố thăm hư vô” mà phương Tây đang phải đối mặt có lẽ không đến nỗi bi quan như thế, vì sao?, vì nó chỉ cần trở về với thực tại như tính, điều mà chính nhà tâm phân học Carl Jung phần nào đã kêu gọi: “Chúng ta nên trở về với những giá trị phương Đông để hiểu rõ hơn về năng lực tự giải thoát của tâm hướng nội”. Đó chính là thế giới mà con người có thể tin tưởng và lạc trú.
Hậu hiện đại chống lại các chủ nghĩa trong khi lại xây dựng cho mình một “chủ nghĩa”. Điều này cũng có vẻ nực cười, trong khi những lý thuyết mà nó đưa ra đã ẩn ngầm sự phủ định chính nó. Phải chăng nó đang đối mặt với một “hố thẳm hư vô” khác? Ở một phạm vi nào đó, sự chống đối của hậu hiện đại với mọi “trần thuật lớn” có lẽ không dừng lại ở việc mở rộng nội hàm hay ngoại diên khái niệm mà vươn tới một khả năng sáng tạo tinh thần không thể định danh được, bởi vì cái gọi tên được chỉ là giả danh. Hậu hiện đại cũng là một giả danh thế nên nó không kêu gọi cho chính nó mà nó muốn đưa ra một tuyên bố bình đẳng giữa các văn bản lớn và văn bản nhỏ, giữa cái được gọi là đúng và cái bị coi là sai. Nó muốn nói đến sự bất đồng của những tương quan, nó từ chối duy lý trong nhận thức. Nó đòi quyền sống cho các “vi văn bản”. Nói như Ciceron “Cái gì không thể xảy ra thì không thể xảy ra được, và cái gì có thể xảy ra thì không phải là một phép lạ”. Còn nói như thiền sư Từ Đạo Hạnh (?-1117): “Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không”. Và đâu đó một hải cải bé nhỏ cũng ôm trọn cả vũ trụ này. Nếu cái chuông của nhân loại là tập hợp của các văn bản lớn, cái chuông ấy không thể ngân lên được vì nó có quá nhiều lỗ thủng, có quá nhiều “tuyên bố độc lập”. Hậu hiện đại cảnh báo về những phát ngôn lớn lao mà sự thực hiện thì qúa nhỏ, điều đó giống như may một chiếc áo sơ sinh cho người không lồ mặc. Như vậy tri thức của loài người không cần phải thanh tẩy nếu như nó không tự “chuốc nguy” khi đặt cho mình một cái quyền phán xét, độc tôn. Chúng ta có Nguyễn Trãi, một danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng dân tộc và một trong những điều làm nên danh xưng ấy chính là sống trong nền tri thức Nho giáo mà ông vẫn có thể thốt lên: “Ta dư cửu bị Nho quan ngộ”. Đó chính là giải phóng tri thức, là tự do từ bỏ một thẩm quyền phán xét. Nói như các nhà hậu hiện đại thì đó chính là quyền “ngộ luận”.
Có thể nói, khi dừng lại ở cảm quan hậu hiện đại, chúng ta có thể đi sâu vào khám phá đời sống “chủ quan” trong các điều kiện khả thể. Tuy nhiên, đứng ở mặt “lập thuyết” hậu hiện đại cũng phải đưa ra những “kết luận”, mà hình như những kết luận ấy mâu thuẫn với chính nó. Song hiện đại là cái còn ở phía trước thì hậu hiện đại cũng không phải đích đến cuối cùng cho một danh xưng (giả danh) “hậu hiện đại” mà vốn dĩ cái gì có “hậu” thì có “tiền”. Đằng sau vòng đối đãi, đằng sau hậu hiện đại là cái “đang yên”, là “mê ngộ bất dị”…, và vì thế chúng ta hãy khoan dung mà nhìn thế giới như là một định nghĩa mở…

Thích Thanh Thắng