Thứ Tư, 31 tháng 12, 2008

NHÌN LẠI NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG NĂM MẬU TÝ - 2008


Năm Mậu Tý - 2008 được đánh dấu với những sự kiện quan trọng mang tính bước ngoặt của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo đã hội nhập tích cực và tác động không nhỏ đến dư luận xã hội. Tinh thần Phật giáo và người Phật tử trở thành tâm điểm đáng chú ý của những sự kiện tôn giáo trong nước. Nhìn lại sự kiện trong một năm qua để thêm một lần sống với những buồn vui, khắc khoải, ước mong. Sự thật của sự kiện dẫu chưa thể xóa đi sự âu lo trước những diễn biến đào thải khắc nghiệt của cuộc sống, nhưng phần nào đã củng cố niềm tin về sự trong sáng, chung thủy giữa đạo Phật và dân tộc. Niềm tin ấy làm cho mọi sự kiện Phật giáo trở nên có hồn, dẫu đời sống xã hội chung quanh vẫn còn đó những sự thật đầy hậu quả và hệ lụy đáng để suy ngẫm. Với hơn 60% dân số theo đạo Phật, những sự kiện Phật giáo bước đầu sẽ gợi nhắc và mở ra những định hướng mới cho bước đi chung của đạo pháp và dân tộc.  Những sự kiện này được tổng hợp theo sự lựa chọn của độc giả, qua cuộc thăm dò ý kiến cuối năm của VHPG

Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc

Chủ trương về một thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, Liên hiệp quốc đã quyết định chọn ngày Đại lễ Phật đản sinh, thành đạo và nhập Niết bàn (Vesak) làm ngày lễ văn hóa tôn giáo của thế giới. Ủng hộ chủ trương của Liên hiệp quốc, Chính phủ Việt Nam đã quyết tâm đăng cải tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc lần thứ V -2008, nhằm  cổ súy và tôn vinh những giá trị tư tưởng sâu sắc về hòa bình, hòa giải, khoan dung, vị tha của Đức Phật.

Lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam, Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc được tố chức với quy mô lớn trên khắp tất cả các tỉnh thành trong cả nước, đánh dấu sự hồi sinh của một ngày đại lễ đã từng có vị trí quốc lễ trong lịch sử dân tộc. Đại lễ thực sự trở thành sinh hoạt văn hóa tôn giáo sâu rộng, bắc nhịp cầu tâm linh cho người Phật tử khắp nơi trên thế giới, thu hút trên 600 đoàn đại biểu đến từ 80 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự. Với khoảng 5.000 khách mời trong và ngoài nước, Đại lễ đã đón nhận sự hiện diện đặc biệt của những vị cao tăng, học giả, nhà nghiên cứu..., họ đều có cùng một quyết tâm truyền bá những giá trị tư tưởng thiệt thực của đạo Phật, góp phần xây dựng giải pháp cho các khủng hoảng trầm trọng ở nhiều quốc gia.

Cả lãnh thổ đất nước ta, từ thành thị đến nông thôn, từ phía Tây Bắc đến Tây Nguyên cùng sống dậy, hân hoan trong tinh thần phục hưng truyền thống vốn có trong lịch sử.

Điều đọng lại trong lòng người Phật tử không chỉ là sự quy mô, hoành tráng, có tính quần chúng sâu rộng hay ở những con số kỷ lục trong dịp Đại lễ diễn ra, mà chính là niềm tin, sự hòa bình, an lạc nội tại được củng cố. Bởi tất cả mọi cổ súy giá trị sẽ trở nên thất bại nếu người Phật tử không thể thực hiện hòa bình, an lạc ngay ở chính mình.

Chuyến hoằng pháp tại châu Âu của Trung ương GHPGVN

Đây là chuyến hoằng pháp quốc tế có quy mô lớn trong lịch sử Giáo hội Phật giáo VN kể từ khi thành lập. Đoàn do Hoà thượng Thích Chơn Thiện, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự TƯGHPGVN làm trưởng đoàn.

Nhân dịp mùa Vu lan báo hiếu, chuyến hoằng pháp qua 6 nước châu Âu gồm Pháp, CH Czech, Ba Lan, Hungary, Ukraina, Nga từ ngày 20/8 đến 10/9, Đoàn đã chia sẻ với cộng đồng Phật tử xa xứ những ưu tư về đất nước, văn hóa Việt Nam và về Phật giáo. Ngoài ý nghĩa hoằng pháp, mục đích chuyến đi này còn nhằm phát huy tinh thần hướng về cội nguồn, tri ân, báo hiếu tổ tiên của những cộng đồng người Việt đang sinh sống ở nước ngoài, đồng thời tạo cơ hội giao lưu, mở rộng quan hệ với các tổ chức Phật giáo quốc tế. Đây cũng là dịp để Giáo hội Phật giáo Việt Nam lắng nghe những yêu cầu, nguyện vọng của Phật tử, để Giáo hội có những bước đi cụ thể nhằm nối kết mọi nguồn lực, làm giàu đẹp thêm hình ảnh của con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.

Hòa thượng Thích Chơn Thiện gọi chuyến đi này là “chuyến đi của nhân duyên và thắp sáng niềm tin”.

Tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông

Đức vua Trần Nhân Tông có vị trí đặc biệt đối với dân tộc và đạo Phật Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo cho Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì lễ tưởng niệm, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh giúp Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Đại lễ tưởng niệm và Hội thảo khoa học 700 năm ngày mất của Đức vua Trần Nhân Tông tại Yên Tử.

Đại lễ tưởng niệm nhằm tôn vinh vai trò của vị vua anh minh - Anh hùng dân tộc, nhà văn hóa, người đã sáng lập nên dòng thiền đặc trưng của Việt nam, đồng thời là dịp xiển dương những giá trị tư tưởng hài hòa giữa Đạo và Đời của Ngài, để Tăng ni Phật tử và đông đảo nhân dân học tập, phát huy tinh thần dấn thân nhập thế, “cư trần lạc đạo”, “hòa quang đồng trần”… Sinh thời Ngài thường chốn gậy trúc đi khắp trong thôn ngoài làng khuyên dân chúng thực hành năm giới pháp, mười điều lành. Tinh thần ấy cần phải được tiếp nối để giữ gìn những đạo lý làm người cơ bản trong xã hội hiện đại.

Hội thảo khoa học là một trong những cơ sở để Việt Nam trình UNESCO công nhận Ngài là danh nhân văn hóa thế giới. Cũng từ Đại lễ tưởng niệm này ngày giỗ Phật hoàng Trần Nhân Tông sẽ trở thành ngày quốc giỗ thường niên của Phật giáo.

Tuần lễ Văn hóa Phật giáo tại Huế lần thứ I

Tuần Văn hóa Phật giáo lần thứ nhất do Tạp chí Văn hóa Phật giáo phối hợp cùng Ban Trị sự Tỉnh Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên Huế tổ chức tại chùa Từ Đàm, từ ngày 1 đến 7/3/2008, đã thực sự gây ấn tượng đối với công chúng, đồng thời đánh thức những sinh hoạt văn hóa, tri thức tại thành phố Huế, một trong những trung tâm văn hóa - giáo dục có nhiều nét đặc thù của Việt Nam

Trí thức luôn là lực lượng được trông chờ trước những thời điểm quan trọng. Nói như nhiều người, một “môi trường tự do” và một “nền chính trị tham dự” sẽ thúc đẩy sự sáng tạo của trí thức. Với nội dung phong phú, Tuần Văn hóa Phật giáo đã thu hút khoảng 600 người tham dự mỗi ngày. Đây thực sự là một cuộc hội ngộ trí thức, hứa hẹn mở ra những tiếp xúc gần gũi và thiết thực, cùng quan tâm đến những vấn đề xã hội nổi trội, dần kiến tạo một không gian tri thức hay tìm một tiếng nói chung trong một “mặt bằng trí thức” còn nhiều biến động. Ở đó thể hiện lương tâm trí thức và lòng trung thực, không biện minh cho một chính sách hay chủ trương nào ngoài khát vọng tự do tri thức và một thái độ ứng xử văn hóa phù hợp với cá nhân và lợi ích dân tộc.

Tuần lễ Văn hóa Phật giáo trong tinh thần cởi mở không tránh né mà đi thẳng vào một số vấn đề thời sự, những vấn đề nhức nhối về chủ quyền dân tộc và lương tâm của người công dân đối với đất nước.

Những đại lễ cầu siêu anh hùng liệt sĩ

Cầu siêu chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn là truyền thống tâm linh lâu đời của Phật giáo, thể hiện những giá trị nhân văn sâu sắc, giáo dục tình đoàn kết, lòng yêu thương đồng bào. Thành công của đại lễ cầu siêu trên Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn – nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất nước ta, ở nhà tù Côn Đảo, ngã ba Đồng Lộc, cầu Cần Thơ…  đã nối dài nhận thức về mối tương quan trong tâm thức sinh - tử của người Việt. Một số buổi lễ đã có sự tham dự của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, các lãnh đạo cao cấp của Đảng.

Anh linh đồng bào đã hóa thành hồn thiêng sông núi, kết nối đời sống tâm linh giữa kẻ còn người mất. Với đạo lý thờ người, ai trong chúng ta có thể sống hoan vui khi đâu đó trên mảnh đất này vẫn còn những phần cơ thể, những linh hồn còn vất vưởng, đơn côi trong gió sương hoang lạnh.

Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch

Ngày 5/7 (ngày 3/6 Mậu Tý), Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang xả báo thân cũng là xả đi những vui buồn của một kiếp người. Phật tử Việt Nam đã vượt qua mọi ngăn trở thăng trầm của thời thế, tông môn, danh phận trong nước và hải ngoại cùng kính tiếc tiễn đưa Ngài. Hình ảnh Hòa thượng nâng niu trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức là một hình ảnh đẹp và xúc động trong lòng nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử. Hình ảnh ấy gắn với những giá trị tâm linh bi hùng của Phật giáo Việt Nam một thời. Thời mà Tăng Ni, Phật tử sống trong những biến cố khắc nghiệt nhưng luôn đoàn kết một lòng trên tinh thần phụng sự đạo pháp và dân tộc.

Người con Phật Việt Nam luôn thiết tha và thủy chung với tinh thần ấy. Hòa thượng là chứng nhân một thời của những thế hệ lãnh đạo Phật giáo có chí nguyện dấn thân nhập thế, hòa ánh sáng cùng cát bụi.

Những bậc thạc đức tùng lâm cứ dần vắng bóng, trong khi nền tảng đạo đức tinh thần tông môn mỗi ngày thêm mai một, tham sân si của lòng người vẫn chưa có nhiều hàn gắn, cải thiện trước chí nguyện thiết tha của tiền nhân đối với đạo pháp và dân tộc. “Đức bất cô”- tấm gương đạo đức của Người luôn sáng mãi trong lòng người Phật tử.

Đức Pháp vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII thăm Việt Nam lần thứ 2


Đức Pháp Vương Gyalwang Dpukpa đời thứ XII, theo quan niệm của người Butan và các Phật tử tín ngưỡng Mật tông, là hóa thân của Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Phụ thân của Ngài là Đức Kyabje Bairo Rinpoche, hóa thân Thánh giả Vairochana Đại dịch giả và là Đạo sư tôn quí của tự viện Zhichen miền Đông Tây Tạng; mẫu thân là Konchok Paldon thuộc dòng dõi cao quý của đấng Nyang, Đạo Sư Nyang vĩ đại là vị Terton đầu tiên trong số ba vị khám phá kho tàng chính trong lịch sử. 


Dòng truyền thừa Drukpa được truyền vào nước ta từ năm 1992 theo sự tiếp nhận của cố Hòa thượng Thích Viên Thành – Viện chủ chùa Hương và lời mời của ngài Đại sứ nước Anh tại Bhutan lúc bấy giờ, với tâm nguyện đem sự thực hành của tông phái này nhằm phát triển các giá trị tâm linh trong nước.


Nhận lời mời của Ban Phật giáo Quốc tế Thành hội Phật giáo Hà Nội, từ ngày 15 đến 27/11/2008, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII, người sáng lập, đứng đầu dòng truyền thừa Drukpa của Phật giáo Tây Tạng, các nhiếp chính vương và Tăng đoàn truyền thừa Drukpa đã tới thăm Việt Nam nhân dịp Lễ kỷ niệm Di sản 800 truyền thừa Drukpa. 

 

Việt Nam luôn là mảnh đất để gieo trồng và hội tụ các truyền thống tâm linh Phật giáo, làm giàu thêm cho di sản văn hóa tinh thần của dân tộc. Với ý nghĩa đó, chuyến thăm và hành đạo của Đức Pháp vương Gyalwang Dpukpa đời thứ XII là điều kiện thuận lợi để Phật giáo Việt Nam học hỏi, giao lưu văn hóa, gần gũi hơn với các truyền thống tâm linh, đặc biệt là truyền thống Mật tông đến từ Tây Tạng.


Những sinh hoạt đầy khởi sắc của Gia đình Phật tử Việt Nam


Năm 2008 là năm Gia đình Phật tử có nhiều những sinh hoạt đầy khởi sắc, cho thấy Gia đình Phật tử luôn là lực lượng quan trọng trong chính sách hoằng pháp, đem giáo lý Phật giáo vào cuộc sống xã hội thường nhật. Với việc tổ chức thành công trại các cấp, hội thi nâng cấp, tổ chức hội thảo định hướng phát triển Gia đình Phật tử trong thời đại mới, các quý vị nam nữ cư sĩ Phật tử đã đem đến sinh khí mới cho Gia đình Phật tử Việt Nam.


Gia đình Phật tử trên toàn quốc đã có những ưu tư, trăn trở và hành động thiết thực để chấn chỉnh và phát triển gia đình Phật tử toàn diện trên tinh thần Bi-Trí-Dũng. Đặc biệt sự lớn mạnh sâu rộng của các gia đình Phật tử Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh… đã cổ vũ cho những sinh hoạt Gia đình Phật tử trên cả nước.


Mặc dù tại các tỉnh phía Bắc, sinh hoạt Gia đình Phật tử gặp rất nhiều khó khăn, song năm 2008 đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức về việc phát triển Gia đình Phật tử Việt Nam, nên những sinh hoạt hội trại, khóa tu cho các bạn trẻ đã phát triển và đi vào nề nếp tại một số tỉnh phía Bắc.


Hiện tại, cả nước 839 đơn vị Gia đình Phật tử, có 7.568 Huynh Trưởng, 85.000 đoàn sinh. Ban Hướng dẫn Phật tử thường xuyên tổ chức các trại huấn luyện Huynh trưởng và đoàn sinh, các trại họp bạn ngành nữ, ngành thiếu, tổ chức các khóa tu, hội trại, hiến máu nhân đạo, phòng chống HIV/AIDS… với số lượng Phật tử tham dự rất đông. Đặc biệt trong mấy năm qua Ban hướng dẫn Gia đình Phật tử đã tiến hành thống kê và đưa ra kết quả khảo sát, ngoài những người có tín ngưỡng và cảm tình Phật giáo, cả nuớc có 45 triệu Phật tử chính thức quy y Tam bảo.


Văn Hóa Phật Giáo trong làng báo chí Việt Nam

Có thể nói đây là tờ báo Phật giáo nói riêng và tờ báo tôn giáo nói chung có tiếng nói đặc thù trong làng báo chí Việt Nam. Tờ báo luôn hiện diện trên các sạp báo bên đường phố cho thấy hướng tích cực và triển vọng của một tờ báo tôn giáo. Hướng đi gần gũi, tâm tình và chắt lọc ấy đã không chỉ làm cho tờ báo trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của không ít độc giả, mà còn tác động cả vào những người đọc khó tính khi trước những làn sóng thông tin có nhiều biểu hiện thương mại hóa, hay chạy theo những thị hiếu thông thường.

Văn Hóa Phật Giáo, qua hơn 70 số báo, với nhiều hoạt động văn hóa xã hội ngoại vi, đã tạo dựng được niềm tin trong lòng bạn đọc. Hy vọng, con đường của Văn Hóa Phật Giáo trong năm mới Kỷ Sửu -2009 sẽ dấn thân tích cực hơn nữa vì lợi ích chung trong tinh thần Phật giáo Việt Nam: “hộ quốc an dân”.

Nhóm PV VHPG tổng hợp

(Văn Hóa Phật Giáo - Xuân Kỷ Sửu)

TRẠNG PHẬT


Đạo Phật và lịch sử dân tộc có cùng chung những biến động thăng trầm. Đó là sự dịch chuyển mang hơi thở triết lý vô thường của Phật giáo. Không có vô thường thì Phật giáo sẽ mất đi một phần tinh túy bản sắc. Bản sắc của một tôn giáo không cưỡng lại những biến động, thăng trầm. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận điều này, từ thời người dân đi ngủ không cần phải đóng cửa, đến thời mà nơi đặt tượng Phật, bia đá, chuông đồng phải đề phòng cài then, chốt cửa.

 

Nói đến chuyện thăng trầm, xin kể đôi điều về một nhà vua anh minh và một vị “Trạng Phật”.

Trong lịch sử Việt Nam, vua anh minh có nhiều, nhưng thời Lê rất đáng kể vì có một số vị vua như Lê Thần Tông (1607-1662) sùng mộ Phật, vua Lê Hy Tông (1663-1716) lúc đầu ngăn cấm đạo Phật, nhưng sau được sự khuyến hóa của thiền sư Tông Diễn đã quay trở về đạo Phật, cho tạc tượng mình quỳ mọp đội tượng Phật trên lưng để tỏ lòng sám hối. Thiền tông bản hạnh đã viết: “Bụt sinh hoàng giác Lê gia… Hưng sùng đạo Bụt chợ quê khắp miền”. Gần như triều đại nào cũng có “Bụt sinh”, nhưng thời Lê đáng để nói vì có người cho rằng vào thời này, Phật giáo bị đẩy về những nơi thôn quê. Khái niệm “bị đẩy” này xuất hiện do một vài vị vua nhà Lê có lúc đã ra lệnh thải bớt tăng đồ, không cho tăng sĩ tiếp xúc với người trong cung và hậu đình…

Thời ấy, đạo Phật tuy rời xa chốn cung đình nhưng vẫn là nền tảng tâm linh trong cuộc sống của đa số người Việt, nên tư tưởng Nho giáo chỉ có thể hấp dẫn với những người có chí hướng ra làm quan. Khi nhà nho nhận thức được sự thăng trầm, vinh nhục trong chốn quan trường, thấu tỏ được quan niệm “cùng thông đắc thất”, “công thành thần thoái”, “xuất xử hành tàng”, cũng là lúc đạo Phật trở nên gần gũi với họ nhiều hơn. Có những bậc trọng nho, túc nho, một lúc nào đó trong đời đã “lệch chuẩn” để lui tới chốn chùa chiền, đàm đạo với các thiền sư… Vì thế mà dần hình thành xu hướng “cư Nho mộ Thích” ngay trong thời Nho giáo phát triển, đến mức có vị vua phải ra lệnh cấm đại thần thờ Phật trong nhà.

Thực tế Phật giáo chưa từng đi khỏi nơi thôn quê bao giờ nên không có chuyện bị đẩy về. Vậy nó suy tàn ở chỗ nào? Không có lực lượng trí thức đông đảo chốn quan trường mà bảo nó suy tàn chăng? Đó không phải mục đích của đạo Phật, bởi vậy muốn hiểu đạo Phật, hiểu nhân cách người Phật tử dấn thân nhập thế, tư cách học giả (bác học) không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tư cách của một hành giả. Danh nho Nguyễn Trãi thường lui tới làm bạn thiền sư Đạo Khiêm, từng phát biểu: “Ta dư cửu bị nho quan ngộ” (Bấy lâu ta bị cái mũ nhà nho nó chụp làm cho sai lầm) và “Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền” (Gặp dịp tôi cũng sẽ đi tu đạo thiền). Thiền sư Đạo Khiêm hẳn phải là người có sức cảm hóa lớn đối với trí thức đương thời.

Trên nền tảng là niềm tin lớn của dân chúng, Phật giáo tiếp tục được mở ra trong nhận thức của vua Lê Hiến Tông (1461-1504). Đại Việt sử ký bản kỷ thực lục chép: “Vua Lê Hiến Tông tên húy là Sanh, lại húy là Huy, là con trưởng của Thánh Tông, ở ngôi 7 năm, thọ 44 tuổi… Vua thiên tư anh minh thông duệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữ cơ đồ…” (1).

Vua Lê Hiến Tông là con trưởng của vua Lê Thánh Tông. Chính sử chép rằng, vua Lê Thánh Tông ở ngôi lâu mà chưa có con nối dõi, Hoàng thái hậu Quang Thục làm lễ cầu đảo và sai Nguyễn Đức Trung đến cầu tự ở am Từ Công núi Phật Tích (chùa Thầy núi Sài Sơn). Hoàng hậu Trường Lạc ở cung Vĩnh Ninh tức thì có mang, đến khi đầy đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào trong phòng, một lát thì sinh ra hoàng tử, ứng thân của sao Thiên Lộc. Trong văn bia chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), Nguyễn Bá Bằng có viết: “Trường Lạc hoàng thái hậu có điềm rồng vàng nhập vào sườn bên tả”. Đây cũng là lý do mà sau một năm lên ngôi, vua Lê Hiến Tông đã cho sửa chùa Thiên Phúc và cho dựng bia theo ý nguyện của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung, thân phụ của Hoàng thái hậu (2). Cần nói thêm, các vị vua anh minh thời xưa đều gắn với những truyện tích về điềm sinh kỳ lạ.

Nói lan man như vậy để dễ đi vào chuyện chính của vị “Trạng Phật”. Vì câu chuyện này liên quan đến quốc sách giáo dục của vua Lê Hiến Tông.

Tháng Tư, Kỷ Mùi, Cảnh Thống năm thứ 2 (1499), vua Lê Hiến Tông ra sắc dụ rằng: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh…(3).

Tháng 12 năm Tân Dậu, Cảnh Thống thứ Tư (1501), vua Hiến Tông ra sắc chỉ quy định các thể lệ thi Hương (tương đương với tú tài hiện nay). Trong sắc chỉ này, đáng chú ý là xã trưởng ở các xã phải bảo đảm cho học trò của xã mình. Nếu xã trưởng nào khai nhận, đảm bảo không đúng, quan phủ, huyện châu khảo không kỹ để đến nỗi học trò vào thi còn nhũng tạp và có người viết bất thành văn, hay vì họ hàng con em mà gửi gắm thì sai nhân của khoa, đài đó phải dò xét cho ra sự thật, giao hết lên để xét hỏi trị tội. Khi học trò vào khi thì khám xét kỹ càng từ ngoài cửa. Nếu thấy mang tài liệu vào hoặc cho người vào thi hộ thì phải bắt ngay để xét hỏi. Những người can phạm như trên bị sung làm quân bản phủ 3 năm, suốt đời không được vào trường thi và bổ dùng nữa. Các viên giám thị niêm phong bài thi, kẻ nào bất minh thì biếm hay giáng chức… (4).

Tháng 2, Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), diễn ra kỳ thi Hội, tuyển các cử nhân trong nước, số dự thi 5.000 người. Vua đích thân ra đầu bài văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ. Người không có kiến thức rộng về đạo Nho, ắt không thể vượt qua kỳ thi này.

Đến kỳ thi Đình vua đã chọn Lê Ích Mộc (1458-1538) làm Trạng nguyên, “vua sai tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước, bị bỏng tuột cả tay mà không biết. Vua ngự điện Kính Thiên, Hồng lô đích thân truyền loa xướng danh. Mọi năm bảng vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai Lễ bộ bưng ra, đánh trống nổi nhạc rước ra treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà Thái học bắt đầu từ đó…” (5). Có thể nói, mọi vinh dự đều đến với Trạng nguyên Lê Ích Mộc.

Lê Ích Mộc bưng lư hương bỏng tuột cả tay mà không biết. Nhưng cả triều đình đều biết Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên vì thông tỏ Phật pháp. Trong kỳ thi cao nhất (thi Đình) cấp quốc gia, vua Lê Hiến Tông đã bỏ qua bao nhiêu đạo lý trị nước của Nho giáo để bất ngờ hỏi về Phật pháp, nhằm thử sức những trí thức Nho giáo đương thời. Bài trắc nghiệm bất ngờ và táo bạo này đã chứng minh thêm cho tư tưởng coi trọng hiền tài, tập hợp mọi sức mạnh tư tưởng của vua Lê Hiến Tông. Các trí thức Nho giáo có một phen để suy nghĩ về việc học phiến diện của mình. Điều này cho thấy “nguyên khí quốc gia” không thể bị bó rọ vào một “bộ óc”, “tư tưởng” đặc thù nào. Với bài thi Phật pháp của Lê Ích Mộc, vua Lê Hiến Tông đã phải sửng sốt mà rằng: “Bài văn của Lê Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với bạn đồng khoa. Trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng đáng bậc khôi nguyên” (Công dư tiệp ký).

Trong hơn 100 câu hỏi về các lĩnh vực khác nhau từ lịch sử đến giáo lý Phật giáo, Lê Ích Mộc đều biện giải trôi chảy. Có đoạn ông đã nói về đạo Phật như thế này: “…Kính nghĩ bậc thánh thiên tử Thánh triều ta, kế thừa các bậc vua thánh, gặp gỡ vận hội lớn lao, để tâm nội điển, xoay chuyển pháp luân, trên có thánh từ Thái hoàng thái hậu và thánh Thái hậu, cõi Nam nuôi dưỡng công đức, Thiên Trúc ngưng hội tinh thần, vui sướng nơi quê Trường lạc, siêng năng chăm đạo chí chân. Lại thêm có ngài Bình Cao Vương và các bậc đại thần trông coi việc nước, thảy đều tha thiết với việc thờ Phật, gió vua nhân thổi mãi, mặt trời Phật sáng lâu, tăng thêm vẻ sáng của tổ thành, giúp thêm thánh hóa của Hoàng triều. Cả những hạng đệ tử chúng tôi, sinh gặp đời thịnh trị, được học tập pháp môn, phát Bồ đề vô thượng đạo tâm, thụ Như Lai vi mật giáo pháp, phàm là Phật pháp, thảy đều thi hành. Song nay đấng thánh minh đã sách vấn, vì vẫn cầu đạo đấy, cho nên mới hỏi lũ hạ thần…”.

Bấy nhiêu lời của Lê Ích Mộc và sự chứng thực của vua Lê Hiến Tông, ai có thể nói rằng đạo Phật thời ấy suy tàn. Một anh minh sách vấn tài tình, một Phật tử hùng biện xứng danh “Trạng Phật”. Họ đã cùng nhau để lời tuyên ngôn giáo dục “hiền tài là nguyên khí quốc gia” trở thành bất hủ, khẳng định thêm Phật pháp trường tồn.

Thời Lý - Trần, Phật giáo cực thịnh, đêm ngủ người dân không phải đóng cửa. Vậy có thể nhìn hành vi ứng xử thường ngày của người dân mà nhìn ra bóng dáng của vị “trụ trì”, của đạo Phật được không? Chắc chắn Phật giáo nên nhìn thật kỹ vào những ứng xử như vậy của dân chúng để điều chỉnh mình. Nếu cứ nhằm vào sự “cực thịnh” bằng chùa to, Phật lớn với nhiều kỷ lục và các sư có nhiều “thần thông” đi mây về gió như hiện nay thì sẽ có người đẩy ngay thời đại Phật giáo Lý - Trần vào tút mút vùng sâu vùng xa, vùng biên địa hạ tiện.

Mở cửa có cái hiên ngang của mở cửa. Cài then có cái cẩn thận của cài then. Làm ra cái cửa cũng để nhằm mục đích ra vào và phải biết lúc nào nên mở, lúc nào nên đóng. Mở đóng là vô thường, là đi qua ngày đêm, đi qua không gian thời gian và đi qua vui buồn.

Ở thời nào mà nhà chùa phải đóng cửa? Đóng mở là chuyện của mọi thời, điều quan trọng là đứng trước cái gì thì phải đóng, đứng trước cái gì thì nên mở. Không phải chỉ do mất trộm nhiều mà phải đóng kín cửa chùa. Bởi với những người có quyết tâm chiếm thì dù có cài then, khóa cửa cũng chẳng ích gì. Khóa được cái lòng tham thì cửa chùa ban đêm cũng như ban ngày. Không khóa được cái lòng tham thì ban ngày cũng chẳng khác ban đêm.

Cơn gió lòng tham (cả chủ quan lẫn khách quan) mà thổi vào nhà chùa thì đúng biến thành sai, ngày biến thành đêm, có giấy tờ biến thành không giấy tờ, nhân chứng thật biến thành nhân chứng giả… Nói chung các giá trị sẽ bị đảo chiều, quy ngược.

Thời Lý - Trần, ban đêm đi ngủ không cần đóng cửa, vì có những vị vua anh minh như Trần Nhân Tông chống gậy đi khắp trong thôn ngoài làng khuyên dân giữ gìn mười điều thiện. Giữ gìn điều thiện như giữ con ngươi của mắt mình thì đêm tối nào có thể ngăn cái tính sáng trong lòng mình đi được. Nay lòng tham nổi lên như ong, không lẽ vì thế mà cứ đóng mãi cửa vào. Đóng vào thì biết giao du với ai? Còn ai khác ngoài dân, bởi càng gần láng giềng, gần dân, thân dân thì càng giảm áp lực cho cái cửa, cho người đóng mở cửa. Vậy sự thăng trầm, liên quan gì đến người đóng mở?

Liên quan nhiều lắm, vì nếu đóng lúc không đáng đóng, mở lúc không đáng mở thì tâm sẽ cứ canh cánh, bất an, thậm chí cả lo sợ nữa. Đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo của những người có trí tuệ. Đạo Phật là đạo từ bi, đạo của những người có lòng từ bi. Thế thì phải làm gì để cho dân thấy trước mắt họ là những người có trí tuệ và từ bi, ở nhà gặp người có trí tuệ từ bi, ra đường, vào chợ gặp người có trí tuệ từ bi... Người đóng mở cửa là người phải có được nhận thức đầy đủ về hai vấn đề lớn ấy. Bằng không thì không thể dung hòa được cái nhà và cái chùa. Là cái “nhà” mà không biết giữ gìn, sử dụng đúng thì hoang phí của đàn na tín thí. Là cái “chùa” thì phải biết mở rộng lòng, mở rộng đường hướng thượng, phát bồ đề tâm. Nhà sư là nhà chùa. Các vị sư đã tự xưng mình như thế, nhằm xóa nhòa cái tôi, đề cao sự “vô ngã”.

Người đóng mở cửa chùa không chỉ là người làm công quả bình thường trong chùa đâu, nên đừng xem đó là việc vặt, việc nhỏ. Người “đóng mở” cửa chùa phải là người mang danh “trụ trì” (trụ Pháp vương gia, trì Như Lai tạng).

Chuyện “nhà chùa”, chuyện cái cửa, cái tâm, chuyện “đóng mở” cũng là những chuyện liên quan đến thăng trầm, thúc đẩy cho thăng trầm diễn ra. Người ta thường ví von “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”. Không chỉ là đóng cái cửa vật lý đâu, vì cái cửa ấy ngày nào mà không có người đóng. Chùa không sư thì hư mất chùa (hư chùa và mất chùa). Thời Pháp thuộc, đạo Phật Việt Nam mất quá nhiều chùa bởi người ta nghĩ chùa không có bằng khoán, khế ước, nên nếu bỏ trống mà không có người kế tục thì gọi là đất “vô chủ”, rất đáng phá.

Đó là cái nhìn sai lầm, vì điều đáng bàn là xưa nay người Việt vẫn quan niệm “chùa của dân, sư của dân”, “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Dân xây chùa và dân mời sư về ở chùa. Chùa là sở hữu của dân, là tài sản vật chất và tinh thần chung của dân, là di sản văn hóa truyền đời của dân. Sao có thể gọi nó là vô chủ được. Chừng nào còn một người dân Việt Nam tin Phật thì chừng ấy chùa chiền vẫn còn có chủ. Ở thời thịnh Nho, cụ Nguyễn Trãi (1380-1442) trong đời có lúc cần đến sự “nhờ gửi” đã khiêm tốn nói thế này: “Ao quan thả gửi hai bè muống. Đất Bụt ương nhờ một lảnh mùng”. Muốn làm gì trên đất ấy phải nhờ phải gửi, bởi “ao quan” và “đất Bụt” là hai giá trị mang hình hài của đất nước, non sông, mang tâm tình của dân chúng.

Hóa ra cái chùa (đất Bụt) ấy không chỉ là tài sản vật lý thông thường, nó là là biểu tượng của cái đẹp, cái thiêng, cái cao cả, là niềm tin lớn vào các giá trị. Cái đó có ý nghĩa, giá trị hơn nhiều chứng từ và khế ước. Vì lẽ đó chùa ấy, sư ấy đã sống trong tâm niệm của dân, kỳ vọng của dân. Đáp ứng sự tin tưởng đó, người giữ chùa phải có từ bi và trí tuệ. Có được hai điều đó thì sẽ biết cách đóng mở cửa chùa đúng lúc, không quay lưng lại với niềm tin lớn của dân tộc.    

Lê Ích Mộc thời hàn vi ở nhờ nhà chùa và được các vị sư giao cho việc chép dịch kinh Phật. Có ai ngờ đạo Phật được nối tiếp ở đời lại nhờ cả vào những người (chỉ mới) “ở nhờ” chùa như vậy. “Trạng Phật” Lê Ích Mộc gắn với câu chuyện “thăng trầm” của Phật giáo thời Lê, thời mà không có nhà sư nào học làm danh thần, tiến sĩ, nhưng vẫn hấp dẫn các tiến sĩ, danh thần đến với đạo thiền.

Trước mắt việc đi mãi… Đã hơn 5 thế kỷ trôi qua (550 năm ngày sinh Lê Ích Mộc), không biết có những ngôi chùa Việt nào đã nhắc đến khôi nguyên Lê Ích Mộc như một vị Trạng Phật và nhắc đến vua Lê Hiến Tông như một vị trọng hiền tài? Và ngày mai biết có còn ai “ở nhờ” chùa sẽ tiếp danh “Trạng Phật”?

Thích Thanh Thắng

(Văn hóa Phật giáo - Xuân Kỷ Sửu)

Chú thích:

(1), (2), (3), (4), (5) Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3, bản in Nội các quan bản năm Chính Hòa thừ 18 (1697), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2008

ĐỌC TIỂU THUYẾT “KHÔNG VÀ SẮC” CỦA NHÀ VĂN BÙI ANH TẤN


“…Đừng xét những sai lầm của người khác, mà hãy sửa đổi những sai lầm của chính mình. Đừng xét những khuyết điểm của người khác, hãy xét những khuyết điểm của chính mình. Điều xấu nhất là có thành kiến tôn giáo và phê phán người khác trong khi không biết rõ tâm trí của họ. Vậy hãy bỏ thành kiến như bỏ thuốc độc” 

Mới nghe cái tên Không & sắc, thoạt đầu, chúng ta có cảm giác đây là một tiểu thuyết huyền ảo, đầy hư - thực và sẽ khó đọc. Tuy nhiên, sự thật không phải như thế, bởi Không & sắc là một tiểu thuyết có nét duyên rất riêng và khá hấp dẫn. Sức lôi cuốn của nó chính là những cảm xúc tự nhiên, chân thật rất con người, rất đời, pha lẫn với màu sắc huyền thoại về những con người đang nỗ lực đem ánh sáng hòa vào cát bụi, làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn, nhiều ý nghĩa hơn. Bên cạnh đó, chúng ta có thể tiếp xúc với những giáo lý uyên áo mang đầy giá trị thực nghiệm của triết lý nhân sinh Phật giáo bằng ngôn ngữ văn học.

Để thành công khi viết về đề tài Phật giáo không phải là chuyện dễ, huống chi là chọn cái khó (không - sắc) để diễn đạt. Bởi không khéo, tác phẩm rất dễ rơi vào gượng ép, hoặc biến tình cảm tôn giáo của mình thành một sân khấu đầy những hoá trang.

Vốn sống phong phú, nhận thức, tư duy Phật học khá cơ bản, cộng với bản lĩnh của một tâm hồn văn chương nhạy cảm và một niềm tin tha thiết vào con người, tác giả đã đi từ cái khó nắm bắt trở về với những điều gần gũi, thân quen. Để tránh khỏi lối viết theo kiểu hòa âm một cách đơn điệu về Phật giáo, tác giả xây dựng thành công rất nhiều nhân vật: một trưởng lão Chân Tâm hành động kì quặc, nói năng vu vơ một cách rất diệu kỳ; một thượng tọa Thiện Luật có vẻ lạnh lùng nhưng mau nước mắt; một sa di Thiện Tuệ nỗ lực tu hành đến mức hoá điên; một Thiện Tài mong được xuất gia cống hiến cả cuộc đời mình cho Phật pháp nhưng vẫn không vượt ra ngoài những khát khao nhục cảm mãnh liệt; một Tiểu Vân Tử không rõ là nam hay nữ…

Khéo nắm bắt được mối quan hệ giữa ý thức và bản năng, tác phẩm xuất hiện nhiều trang viết trữ tình, lung linh huyền ảo. Chúng ta nhiều lần xúc động trước vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết, từ hòa của những bậc thầy khả kính. Chúng ta thông cảm và đồng cảm với những cảm xúc rất bản năng, những dằn vặt khổ đau của kiếp con người mà không rơi vào cách nhìn dung tục hóa tới mức tầm thường các giá trị khác trong cuộc sống.

Lợi thế của Không & sắc chính là không thể nói hết, không thể giải quyết hết mọi vấn đề. Vì thế, có những điều nửa muốn thổ lộ, nửa muốn giữ riêng cho mình, có nhiều điều nói chưa hết, chưa thoả. Điều này, tạo ra sức gợi và sự liên tưởng, không buộc người ta tin nhưng cần người ta hiểu. Cũng vì thế, tác phẩm thể hiện sự đan cài những yếu tố tâm lý muốn vươn lên, thoát ra nhưng cũng không ngần ngại khi bị buộc ràng. Như vậy, Không & sắc cũng bộc lộ rất rõ  đâu là nhận thức, kinh nghiệm và sự từng trải, đâu là niềm tin và sự hoài nghi. Có thể nói, còn nhiều điều chúng ta chưa biết nên không thể vội vã kết luận bằng những tiêu chuẩn đã được định hình, định tính. Vạn pháp do duyên sanh nên pháp thiện, pháp ác cũng không thật sanh diệt. Vì vậy, hãy tiếp xúc với cuộc đời theo cách riêng và bản lĩnh của chính mình.

Với sự giao hòa vô bờ của không – sắc, có lẽ, cả những lý thuyết đa trị và bất trị đều trở nên lạc điệu. Ta không nên mất sức vào công việc cố tình xóa đi những cái mà bản thân nó vốn không có hình tướng nào cụ thể, bất biến. Ai đó có thể bằng lòng hoặc không bằng lòng với cách giải quyết vấn đề của tác giả, nhưng quả thật, sự minh chứng về một hệ thống giáo lý đa phương tiện đã làm cho cách giải quyết vấn đề có nhiều hợp lý. Nếu đứng ở một góc nhìn nào đó để đánh giá, tất nhiên, chuyện bàn cãi là không thể tránh khỏi.

Người ta vẫn có thể thẩm định giá trị đích thực của kinh điển mà tác giả đã minh họa. Tuy nhiên, trong một tiểu thuyết tính đúng đắn của những khái niệm đã vượt ra ngoài sự định danh. Bằng những dụng ý riêng, tác giả có thể trích dẫn những câu trong kinh cho phù hợp với ý đồ nghệ thuật của mình. Vì thế, chúng ta cũng không nên hiểu đó chính là toàn bộ tư tưởng của Phật giáo.

Tác phẩm có lúc cho chúng ta chứng kiến những cuộc bàn cãi nảy lửa chỉ vì ai cũng cho tông phái của mình là đúng. Cái đúng ghét cái sai, thói thường xưa nay vẫn thế, nhưng cái đẹp lại vốn ghét chính bản thân nó thì sự thật lại chớ trêu. Ở đâu đó, đằng sau suy nghĩ hành động của một số nhân vật, ta có thể hình dung ra sự xuất hiện của một thế lực đang trở nên cuồng tín với tất cả các giác quan đang quằn quại, rỉ máu. Nhưng ta cũng trở nên yêu thương hơn và không có lý do gì để xa lánh những con người ấy. Bởi khi trưởng lão Chân Tâm đặt vấn đề tiếng “hét” của ngài Lâm Tế và “con chó” của thiền sư Triệu Châu thì ít nhiều những áp đặt tư tưởng đều sa vào giáo điều và cực đoan một cách vô lối.

Tiếng vọng khổ đau từ ngàn đời của kiếp nhân sinh vẫn là nỗi lo lắng khắc khoải khôn nguôi trong lòng người về thiện – ác. Niềm tin trở nên mong manh trước vô vàn những xao động của cuộc đời. Những mâu thuẫn giằng xé lại chính là biểu hiện đẹp của tính chất “hữu tình” trong tâm địa chúng sinh. Và vì thế, các giác quan vừa có tội, vừa vô tội bởi nó mang trong mình cả hai chiều tác động của tịnh-uế, thiện-ác, trí-ngu,…Thật khó để phân biệt, lúc cần phân biệt vẫn phải phân biệt, nhưng cũng không gì ngớ ngẩn hơn là sự phân biệt. Mỗi người đến thế gian bằng một cách và ra đi bằng một cách. Đến và đi, cái thấy muôn đời vẫn không gì hơn sự ngây thơ đáng thương hại của nhục nhãn. Đừng lấy tâm địa của chúng sinh để so lường Phật trí… Tác giả đã cho nhân vật của mình đặt ra rất nhiều câu hỏi. Tuy nhiên, vấn đề không phải ở câu trả lời mà là ở cách chúng ta nghĩ và đối xử thế nào về những điều xảy ra trong thực tại. Đức Phật bị ngoại đạo nguyền rủa đó có phải là nghiệp không? Đề Bà Đạt Đa đang ngồi trên chậu lửa mà thấy nó là hoa sen có phải là nghiệp không? Qủa thật, sự phân biệt của con người đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chính con người.

Đọc kỹ Không & sắc, chúng ta thấy tác phẩm đôi lúc còn dừng lại ở tư duy khái niệm, nặng về minh họa, và không khỏi có những tham vọng muốn bao quát hết tư tưởng Phật giáo. Chính vì giới hạn này, mà nhiều vấn đề đặt ra còn nông, lấn cấn ở một vài câu nói mang tính chất “an ủi”, khiến cho tác phẩm có phần loãng. Nếu như sự chuyển đổi từ một ngôi chùa của Thiền tông sang Tịnh độ tông còn khá bình yên, quen thuộc thì sự chuyển đổi từ một ngôi chùa Tịnh độ sang ngôi chùa Mật tông lại sóng gió và đầy xa lạ. Cái lạ thường hấp dẫn trí tò mò của con người nhưng không vì thế mà làm cho cái lạ trở thành phản cảm. Xung đột tông phái xảy ra trong con người thượng tọa Thiện Luật không hẳn là xung đột mang tính chất thuần tôn giáo mà nó còn là xung đột văn hóa. Việc đẩy xung đột này trở thành cao trào và kết cuộc bi thảm là thượng tọa Thiện Luật đã hành động như một kẻ điên cuồng, khát máu, chém chết hai vị sư Mật tông và tự đốt chết mình là điều quá sức tưởng tượng của người đọc.

Mọi chuyện trên đời đều có thể xảy ra, tuy nhiên, với mâu thuẫn tông phái mang tính cá nhân như vậy thì câu chuyện đã bị thổi phồng quá chăng? Khả năng về sự “biến thái tâm lý” ấy chính là do thượng tọa khi xưa là một thái giám. Vì để mèo ăn mất con chim quý của Ninh vương nên phải bỏ trốn và luôn sợ bị phát hiện. Cách lý giải như vậy có nhiều khiên cưỡng. Điều này, có khả năng xuất phát từ ấn tượng không tốt về một hạng người nào đó. Cho nên, hình tượng nhân vật có thể đã bị bóp méo bằng chủ quan tính, làm cho câu chuyện thiếu thuyết phục.

Tuy nhiên, chính sự nhận thức về giáo lý Phật giáo của tác giả đã phần nào bổ xung vào khiếm khuyết ấy, làm cho ngòi bút không thể vượt ra ngoài qũy đạo của sự bao dung cần phải có. Sự việc đã xảy ra không phải để chúng ta chán nản, bi quan, ghét người, giận đời, mà chính từ đó, hình tượng cái đẹp được tôn vinh thêm bằng một kinh nghiệm mới hơn về cách nhìn nhận cái đẹp. Các giá trị đang có của thực tại càng được nhận thức và trân trọng một cách nghiêm túc. Có thể có những cái xấu sẽ ngày một đẹp và cái đẹp sẽ không còn đẹp nữa. Nhưng dẫu sao, với Không & sắc, mọi cách nhìn chưa chín kỹ về thiện – ác, khen – chê của con người đều có nguy cơ bị cuốn vào vòng xoáy của cơn lốc ghét – yêu. Nếu không thận trọng thì niềm tin vào con người sẽ ngày một có nguy cơ bị huỷ báng.

Ngôn ngữ của Không & sắc phần nào thuyết lý và khá tỉnh táo. Chính vì vậy, nhiều lúc chúng ta thấy nó sa vào ngôn ngữ “bài giảng” và có độ chênh nhất định khi một số vấn đề không được đặt đúng không gian văn hóa mà tác phẩm đề cập. Tuy nhiên, ấn tượng hiện đại mà tác phẩm đem lại chính là mạnh dạn đề cập đến vấn đề khá nhạy cảm của tôn giáo. Đó là vấn đề dục lạc và những biểu hiện của sự khát dục trong hàng ngũ tăng sĩ trẻ. Vấn đề này có thể tạo ra một hiệu ứng xã hội không bình thường trong giới tu sĩ. Vì vậy, Không & sắc  đem đến lời cảnh báo cho những người xa rời giới luật, không tôn trọng giới luật, lợi dụng phương tiện để biện minh cho hành động. Tuy nhiên, cả những  người nhận thức, áp dụng giới luật không đầy đủ cũng biến giới luật trở thành cực đoan, giáo điều.

Sự mách bảo của bản năng cùng với sự cám dỗ vô tận của cảm giác đã trở thành một thách thức không riêng gì của tôn giáo. Như vậy, tác phẩm đã đặt ra vấn đề vai trò của những vị thầy tâm linh trong việc đào tạo con người. Hãy trang bị cho họ bản lãnh trí tuệ, nội lực tâm linh để họ tự hoá giải khổ đau và phục vụ cho những phương tiện độ sinh hữu hiệu. Cần hiểu biết về dục lạc bằng chính năng lực chuyển hóa chứ không phải bằng sự cấm đoán. Do đó, kinh nghiệm chuyển hoá của các vị thầy chính là đánh thức khả năng tự thanh lọc nơi đệ tử, và nó phải trở thành thực tại sống động cho một minh chứng về sự điều phục và chiến thắng.

Thành công của tác giả chính là ở chỗ mở đầu bằng tư tưởng Bát Nhã và kết thúc cũng bằng tư tưởng Bát Nhã, cho nên những điều khẳng định hoặc phủ định trong cốt truyện vẫn có sức mạnh thay nghĩa, biến nghĩa. Vì thế, độc giả, ở nhiều trình độ khác nhau đều có thể tìm ra cho mình một ý nghĩa riêng nào đó…

“…Đừng xét những sai lầm của người khác, mà hãy sửa đổi những sai lầm của chính mình. Đừng xét những khuyết điểm của người khác, hãy xét những khuyết điểm của chính mình. Điều xấu nhất là có thành kiến tôn giáo và phê phán người khác trong khi không biết rõ tâm trí của họ. Vậy hãy bỏ thành kiến như bỏ thuốc độc” 

Thái Nam Thắng

(Báo Giác Ngộ, 2004)

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2008

ĐÔNG PHƯƠNG HỌC, THỰC CHẤT VÀ HƯỚNG ĐI


Tạp chí Human Architecture (Kiến Trúc Con Người) ở Hoa Kỳ vừa ra một số đặc biệt về tư tưởng tương tức (Interbeing) và Đạo Bụt Đi Vào Cuộc Đời (Engaged Buddhism) của Thiền Sư Nhất Hạnh, với tiêu đề Hình tượng Xã Hội của Thích Nhất Hạnh, khảo luận và phê bình về Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (Thích Nhất Hạnh’s Sociological Imagination, Essays and Commentaries on Engaged Buddhism). Số báo đặc biệt này được ra mắt vào Mùa Hạ 2008, Bộ VI, số 3. Chủ bút của tờ báo là M.H.Tamdgidi, giáo sư Xã hội học tại Trường Đại Học University of Massachusetts ở Boston, Ma. Mở đầu số báo có bài giới thiệu của Giáo Sư Winston Langley, quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Boston, giáo sư Chính Trị Học.



Tư tưởng chỉ đạo của số đặc biệt này có liên quan mật thiết với Khoa Đông Phương Học (Orientalism). Có những người không tin là Tây Phương có khả năng hiểu được Đông Phương, dù là đã có hơn 200 năm Đông Phương Học. Họ nghĩ là người Tây Phương có cái nhìn quá nhị nguyên và có sẵn cái óc kỳ thị vì vậy hai trăm năm nghiên cứu về Đông Phương cũng vẫn không giúp cho người Tây Phương cởi bỏ được cái thành kiến là Đông Phương thấp kém hơn (inferior) Tây Phương về mọi phương diện . Edward Said, Giáo Sư Đại Học Columbia ở New York, năm 1978 (1)có viết một cuốn sách với tựa đề Đông Phương Học(Orientalism), và cuốn sách này đã gây sóng gió trong giới tư tưởng và triết học Phương Tây. Ông viết : « Khoa Đông Phương Học đại khái xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 18 ... như môt thể cách Tây Phương nhằm thay đổi cấu trúc của Đông Phương và thống trị Đông Phương » (Orientalism emerged roughly in the late 18th century... as a Western Style for dominating, restructuring and having authority over Orient » Bị ảnh hưởng của Đông Phương Học, những nhà Xã Hội Học nổi tiếng như Karl Marx và Max Weber cũng đã có một cái nhìn méo mó về Đông Phương.

Khi nói đến cách thức sản xuất của Châu Á (the Asiatic Modes of Prodution) Marx cũng đã bị ảnh hưởng bởi cái nhìn không thấu triệt của Đông Phương Học và đã phát biểu theo những giả định của Đông Phương Học. Ông nói rằng cách thức sản xuất ở Á Châu bị chi phối bởi những con người không có tự do cá nhân, những con người hoàn toàn bị ràng buộc với gia đình và xã hội, rằng con người cá nhân mà không được làm cá nhân, chỉ có thể được tìm thấy trong xã hội Trung Quốc thời xưa (the non-individuated individuel was to be found in Ancient China), và do cách thức sản xuất cũng như do những con người như thế mà « hầu như là không thể có cơ hội nào thay đổi được xã hội trong cách thức sản xuất ấy » (there was very little social change of anykind in societies with an Asiatic Mode of Production) Phương thức sản xuất của Đông Phương tạo ra những chế độ trung ương tập quyền nghiêm khắc, những vị bạo chúa tự xưng mình là con trời, thiên tử, có quyền hạn tuyệt đối trên người dân. Giáo Sư Tamdgiti viết : Với cái thấy duy vật, trần tục, vô thần và chống tôn giáo và với ảnh hưởng của Đông Phương Học, cái nhìn mác xít về Đồng Phương và về Châu Á không cho người ta thấy được những giá trị thành tựu trí thức của nền Văn Hóa Phương Đông được ần chứa tiềm tàng trong hình thức đạo học của nền văn hóa này.

So sánh hai nền văn hóa, họ có khuynh hướng cho rằng Đông Phương thì giỏi chịu đựng khổ hạnh còn Tây Phương thì biết tranh đấu để chiến thắng, Đông Phương thì tìm cách xoa dịu khổ đau và xa lánh cuộc đời còn Tây Phương thì sử dụng trí tuệ để làm chủ và thay đổi thế giới. Max Weber trong khi nghiên cứu các đạo Tin Lành, Do Thái và Phật giáo, đã bị ảnh hưởng lề thói tư duy của Đông Phương Học khá nhiều, cho rằng có một khác biệt bản thể (ontological difference) giữa các nền kinh tế Đông Phương và Tây Phương. Đạo Bụt có khuynh hướng thụ động, bất cần, muốn rút ra, trong khi lề lối suy tư của Tây Phương là thật tế, hữu hiệu và năng động. Ví dụ trong khi Tây Phương cho sự chấp nhận chịu đựng là yếu kém và thụ động thì Đạo Phật lại cho đó là một thái độ đại hùng, vô úy, chỉ có thể đạt được với quán chiếu sâu sắc. Khi gặp khó khăn với đoàn thể hoặc với nhà cầm quyền thì người theo Đạo Phật có khuynh hướnh « rút lui » để thiền quán và tìm sự an ủi. Thiền quán chỉ là thụ động và chấp nhận. Giáo sư Langley,Viện trưởng Viện Đại Học Massachusetts, trong bài viết Thích Nhất Hạnh của Châu Á (Asia’s Thích Nhất Hạnh) đã viết: Á Châu có những tuệ giác triết học, đạo đức, xã hội, kinh tế và ý thức hệ rất thực tiễn có thể giải đáp được cho những vấn đề lớn lao của xã hội mà con người đang phải đương đầu, những tuệ giác ấy được dựa trên nguyên tắc tương quan tương duyên. Tu thân cũng quan trọng như tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Ta không có hy vọng thay đổi và chuyển hóa những điều kiện đang đe dọa và làm cho xuống cấp con người cũng như môi trường của con người, nếu ta không biết tự tu, tu với nhau, và trong tinh thần tương tức. Giáo Sư cũng nói rằng Á Châu từ nay không cần bận tâm về những cái mũ giả định mà Tây Phương đã đội vào cho mình lâu nay như thụ động, tiêu cực, v..v...nữa mà có thể, với những thành quả đạt được trong lĩnh vực giải phóng, đi vào ngay trong lãnh thổ của những người đã dán danh hiệu cho mình lâu nay, để giúp lãnh đạo cho việc chữa trị tập thể. Những người như Mahatma Gandhi và Thích Nhất Hạnh không hề có mặc cảm, họ đã chứng tỏ một cách hùng hồn là tư tưởng đạo học Đông Phương có khả năng giải phóng và thay đổi xã hội. Và ta có thể nói tới những phương thức giải phóng của Á Châu (the Asiatic Modes of Liberation...).

Tập san được chia làm bốn phần, bắt đầu bằng bài giới thiệu của Giáo Sư Viện Trưởng. Phần đầu có vài bài pháp thoại mới, vài lá thư và một bài thơ của Thích Nhất Hạnh có chủ đề Đạo Phật Vào Đời – có liên hệ tới các vấn đề chiến tranh, xung đột, môi trường, kỹ nghệ thực phẩm, tiêu thụ và lịch sử phong trào Đạo Phật Vào Đời. Phần thứ hai gồm những bài nghiên cứu và áp dụng quan điểm Đạo Phật Nhập Thế của Thích Nhất Hạnh vào Khoa Học Xã Hội, khai thác sự trùng hợp giữa tư tưởng của thầy với triết lý thực dụng (Pragmatism) của William James, với tư tưởng Môi Trường sâu (Deep Ecology) của Arne Naess, với triết lý xã hội, hình tượng xã hội và phân tích ý thức hệ.

Phần thứ ba là bảy bài nghiên cứu áp dụng tư tưởng Thích Nhất Hạnh trong các trường hợp như giải quyết xung đột chính trị quốc tế, đem chánh niệm và thiền tập vào học đường, đem chánh niệm và ý thức tâm linh vào lãnh vực giữ trật tự an ninh trong các thành phố Hoa Kỳ, áp dụng chánh niệm và thiền quán để trị liệu trong trường hợp những người bị ám ảnh vì chiến tranh, đem ý niệm Đạo Phật Vào Đời vào lý thuyết kinh tế và vào guồng máy kinh tế, tư duy về Đạo Phật vào Đời để tìm ra những phương thuật hữu hiệu đối phó được với cuộc khủng hoảng sinh môi và hâm nóng địa cầu, và sau hết là dùng tư tưởng đạo Phật vào đời để đối trị với những thương đau , mất mát và bất hạnh trong gia đinh.Phần thứ tư đăng một bài tiêu biểu cho lối tư duy Tây Phương không hiểu thấu được cái tinh hoa của tinh thần đạo học Đông Phương do một vị giáo sư tuy đang giảng dạy về Tư Tưởng Thích Nhất Hạnh nhưng không thực sự nắm được tư tưởng Thích Nhất Hạnh và tiếp theo là một bài của Sư Cô Tùng Nghiêm soi sáng lại cho bài nói trên.

Sau đây xin mời các bạn đọc bài giới thiệu tập san của Giáo Sư Langley

Thích Nhất Hạnh, người của Châu Á( Những phương thức Á Đông nhằm giải phóng con người và xã hội)

Tại Tây phương, nhất là tại Tây phương, và cả ở những vùng khác trên thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Tây phương, danh từ Đông phương thường mang một ý nghĩa tiêu cực và thua kém. Tây phương đã nhìn và đã gọi lục địa Châu Á và người Châu Á với tiêu chuẩn của nền nhân bản Tây phương, cho văn hóa Đông phương là thấp kém và con người Đông phương thiếu tự do.

Cố học giả Edward Said, tác giả cuốn Đông Phương Học, đã nói lên với rất nhiều can đảm rằng những ý niệm và từ ngữ mà Tây Phương sử dụng để miêu tả Đông Phương chứa đựng nhiều mâu thuẩn, úp mở và lúng túng. Ông đã sử dụng nhiều năm tháng của cuộc đời ông để vạch trần bộ mặt của cái gọi là Đông Phương Học, đã đưa ra những đề tài phản bác đường lối nghiên cứu ấy và đã tạo rất nhiều không gian và cơ hội để chúng ta có thể vạch lại hướng đi cho một nền Đông Phương Học đứng đắn.

Tuy cuốn sách đã đạt tới những thành tựu lớn lao, nhưng tác giả vẫn chưa thiết lập ra được những tiêu chuẩn để các dân tộc trên thế giới có thể tạo dựng một tương lai chung. Nhưng nói về những phương thức của Á Đông nhằm giải phóng con nguười và xã hội (The Asiatic Modes of Liberation), thì ta đã có thể bắt đầu bằng những quy tắc tìm thấy trong Đạo Phật Nhập Thế (Engaged Buddhism).

Tôi hiểu giải phóng ở đây có nghĩa là những hành động và những quá trình giải phóng, trong lĩnh vực sự sống và hành sử cá nhân, ý nghĩa cuộc đời, tuệ giác và liên hệ giữa con người và con người. Á Châu có những nguồn tuệ giác thực tiễn trong các lĩnh vực triết học, đạo học, xã hội, kinh tế và ý thức hệ, có khả năng đối phó và giải quyết được những vấn đề lớn nhất của nhân loại hiện nay. Những tuệ giác ấy đã dựa trên nền tảng tương quan tương duyên giữa vạn vật. Những đạo lý tu tập để chuyển hóa tự thân cũng quan trọng ngang bằng những nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề triết học và kinh tế . Công cuộc giải phóng xã hội không thể tách rời ra khỏi công cuộc giải phóng bản thân con người. Những nguyên lý như tương tức, tương dung, tương duyên, vô ngã, cái ta riêng biệt và cái ta cộng đồng... không phải là chỉ để giải thích về vũ trụ vạn hữu mà còn là những phép tu tập chuyển hóa và hoàn thiện bản thân. Chúng cũng là những hành động rất cần thiết cho sự hoàn thành bổn phận, tranh đấu cho nhân quyền và hoàn tất trách vụ của mình đối với xã hội.

Những phương thức Á Châu nhằm giải phóng con người và xã hội còn nói lên rằng ta không thể nào thay đổi và chuyển hóa tình trạng đang đe dọa và làm xuống cấp con người và trái đất nếu ta không biết cách tu tập để chuyển hóa bản thân, chuyển hóa cọng đồng và chuyển hóa mối liên hệ giữa con người và con người. Nó cũng nói lên rằng Đông Phương chẳng cần phải chua chát, cay cú hay bận tâm khi nghe Tây Phương dùng những danh từ và khái niệm có tính cách chê bai, bóp méo và coi thường Đông Phương, mà trái lại, với những thành quả đã đạt được, Đông Phương có thể đi ngay vào trong mảnh đất Tây Phương và giúp cho Tây Phương chuyển hóa và giải phóng. Sự có mặt lịch sử của Mahatma Gandhi là một ví dụ, không thể nào lầm lẫn được. Và thầy Nhất Hạnh nữa, khi thầy dạy chúng ta : trong khi đi tìm phương cách cứu vãn địa cầu, cả nạn nhân cũng như kẻ gây ra tai nạn không ai có cơ hội sống còn nếu còn có ý muốn loại trừ nhau.

Những bài khảo cứu trong tập san này đều có chủ ý đi về hướng chấp nhận nhau, ôm lấy nhau, gạn lọc tâm ý mình và thực hiện con người toàn vẹn. Và tập san nầy đã thành công trong việc vinh danh cuộc đời và sự nghiệp giảng dạy của thầy Nhất Hạnh, trong đó có chủ trương đem đạo Phật đi vào cuộc đời.
_______________________


Tác giả Winston Langley là giáo sư chính Chính Trị Học tại trường Đại Học Massasuchetts. Ông cũng dạy về nhiều môn khác như Luật Lệ Quốc Tế và Nhân Quyền. Ông hiện là Quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Massasuchetts . Trong các tác phẩm đã ra đời của Ông, ta có thể kể : Women ‘ Rights in the US : A Documentary History và Human Rights : The Major Global Instruments.
__________________________
(1) Orientalism, Edward Said, Vintage Book, 1978, ISBN 0-394-74067-X
(Theo Langmai.org)

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2008

DI SẢN PHẬT GIÁO: “NO DỒN ĐÓI GÓP”


Sen Việt: Gần đây, có nhiều bài viết trên các phương tiện thông tin có những bình luận khác nhau về việc trùng tu, kiến tạo các công trình di sản văn hóa liên quan đến chùa chiền. Sen Việt nhận thấy cần thiết có một cách nhìn khác về lĩnh vực này, nêu ra những tồn tại lịch sử do những nguyên nhân chủ quan, khách quan của một thời đầy biến động. Cần phải nhắc lại quá khứ không xa để hiểu thêm những diễn biến nhận thức hiện tại, nhằm điều chỉnh và đi đến một sư quan tâm chung, công bằng hơn đối với các công trình kiến trúc liên quan đến những di sản văn hóa Phật giáo.

Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, đặc biệt ở miền Bắc, nơi tập trung rất nhiều di sản chùa chiền, đình miếu có giá trị lịch sử. Đây là điều kiện lý tưởng để di sản mau chóng xuống cấp. Bên cạnh đó, ngoài những nguyên nhân chủ quan và khách quan do thiên tai, chiến tranh…, phải để đến chính sách về tôn giáo một thời khi bài trừ mê tín dị đoan (phổ biến ở ngoài Bắc), đã làm cho nhiều di sản bị mất dấu. Khi bài trừ “dị đoan”, nhiều nơi dân quân xã đến thu gom tượng Phật và đồ thờ cúng để tiêu hủy bớt, thậm chí có nơi còn quy định chỗ thờ tự chỉ được đặt bao nhiêu bát nhang, bao nhiêu tượng Phật. Nơi nào dân quân xã làm hăng say thì gần như xã ấy di sản bị bạc đãi. Nơi nào e dè và đợi phong trào “bài trừ” qua đi thì còn giữ được phần nào.

Chính sách bài trừ mê tín dị đoan được hiểu rằng muốn bài trừ “mê tín dị đoan” thì phải hạn chế các hình thức của nó, tức di sản vật thể và phi vật thể liên quan đến tôn giáo (một thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng). Vì vậy tất cả những gì có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo đều bị định kiến một cách nặng nề. Trong chính sách và hoàn cảnh ấy, chúng ta rất thiếu những nhà văn hóa thuộc lĩnh vực di sản, đặc biệt là di sản vật thể. Vì vậy, khi chùa chiền (phần lớn là cổ) bị xâm phạm rất ít ai đứng ra bênh vực, bảo vệ, vì vốn dĩ chẳng có mấy thợ “lành nghề” nào và cũng chẳng có mấy ai đề cao sự “hiếu cổ”, “lệ cổ” trong lĩnh vực tín ngưỡng dân tộc trong thời điểm đặc biệt nhạy cảm ấy. Nay nhờ chính sách tôn giáo thay đổi, những người làm văn hóa ở nhiều lĩnh vực trở nên đông đảo trong xã hội, họ quan tâm đặc biệt tới di sản văn hóa chùa chiền, đình miếu, do vậy tâm thức “lệ cổ”, “hiếu cổ” đang trỗi dậy do quá bức nghẹt, dị ứng với nhà ống, nhà cao tầng. Nếu không quan tâm đến biểu hiện này thì mọi động thái trùng tu xây dựng mới các di sản sẽ vấp phải những phản ứng khác nhau.

Một thời, để “sửa sai” nhận thức về tôn giáo, di sản được khôi phục nhanh chóng, nhưng khôi phục thế nào khi phần lớn di sản đã đổ nát tới mức không còn có thể trùng tu được. Những di sản gốc, còn nguyên vẹn rất hiếm, đành phải xây mới trên những nền đã bị phá, trên những cơ sở thờ tự đã bị bỏ hoang lâu năm và đang xuống cấp nghiêm trọng, mà xây mới lúc tranh tối tranh sáng, không có đủ điều kiện về lĩnh vực khảo cứu, bảo tồn, cũng như khó tập hợp được những nghệ nhân có tay nghề, có tâm nên di sản được phục dựng lại chỉ là có chỗ để thờ tự, để tạm che mưa che nắng cho thần Phật, đáp ứng phần nhỏ nào đó về nhu cầu tín ngưỡng.

Ngày xưa xây chùa, người đứng đầu làng xã phủ huyện đứng ra lo việc khi được phép của các chính quyền trung ương, đứng đầu là vua chúa và các bộ. Mọi sai phạm trong xây dựng đền chùa đều bị xử lý nghiêm. Đọc lịch sử chúng ta thấy rõ điều đó. Hơn nữa những nơi thờ cúng là không gian thiêng liêng của mỗi làng xã, vì vậy gần như cả làng dốc sức người sức của ra làm đẹp cho đình chùa, đồng nghĩa với việc làm đẹp cho làng mình.

Cái không khí xây dựng chùa chiền mang sức của toàn dân ấy không còn nữa dưới thời Pháp thuộc, khi đình chùa đền miếu đi đến đâu cũng bị thực dân phá tan hoang.

Rồi thì đến phong trào “tiêu thổ kháng chiến”, rồi thì đến thời “bài trừ mê tín dị đoan” những năm 70, 80 của thế kỷ trước làm mai một di sản thêm một lần nữa. Và đáng nói, điều đó không chỉ làm cho di sản bị mất dấu mà nhận thức của con người cũng mất thiêng, do vậy di sản cũng bị coi thường, bị ứng xử một cách tàn nhẫn.
Những năm sau giải phóng, ở những vùng đồng bằng Bắc Bộ, rất nhiều di sản bị bị chưng thu để làm cơ sở sản xuất, nhà kho hay nơi giữ trâu bò, máy móc. Có nơi thì làm trường học, nhưng thiếu ghế ngồi cho học sinh bèn nảy sinh sáng kiến (tiết kiệm) lấy hoành phi, đối liễn, cột gỗ xẻ ra đóng làm ghế ngồi. Nhiều người dân “thấm thía” với chính sách bài trừ mê tín, không còn tin thần Phật nữa bèn đến những nơi di tích, cái gì còn sót lại có thể tận dụng được thì lấy về đóng chuồng gà, chồng lợn, chuồng trâu…

Những nơi đình đền to rộng thì gom hết tượng của các đình, đền, chùa vào một nơi, khiến cho việc phục dựng thờ cúng sau này vô cùng khó khăn. Dân chúng ai nhớ được rằng tượng đó, đồ thờ cúng đó ở đền nào thì đền ấy rước về, không nhớ nổi thì đành chịu. Đó là chưa kể đến những hiện vật cổ “được mượn” để đưa đi triển lãm những trên đường về thì bị đi lạc và mất tích.

Thời gian “ăn bù” để khôi phục di sản là thời gian từ những năm giữa những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây. Các di tích, di sản văn hóa được công nhận khôi phục và cho sinh hoạt trở lại. Nhưng cái tâm thức di sản từ lâu đã bị hỏng mất từ trong lòng người thì mạnh ai nấy chữa. Chính vì thế, nhiều người từ đau xót đối với di sản, muốn khôi phục nhưng thiếu nhận thức văn hóa, lịch sử, thiếu kiến thức về trùng tu tôn tạo, cứ tưởng rằng bỏ tiền ra làm mới là rất có lòng với di sản, rất có “công đức” rồi. Đây là nguyên nhân mà những pho tượng cổ, những hoành phi, đối liễn… còn lại bị bóc sơn cũ đi và tô phết rực rỡ nhiều màu, hoặc được làm mới như hiện nay.

Tuy nhiên, công bằng mà nói, thời gian cho khôi phục di sản, chúng ta “khoán trắng” cho họ, nên nhiều ngôi chùa, đình, đền, vừa do tu bổ không đến nơi, vừa do thiếu kiến thức văn hóa, lịch sử, vừa do thiếu tiền nên chỉ vài năm nhanh chóng xuống cấp. Có nhiều nơi, trước kia là những ngôi chùa cổ có từ thời Lý - Trần, Lê - Trịnh…, nhưng trải qua sự trùng tu, thậm chí xây mới dưới triều Nguyễn mà không còn vóc dáng ban đầu. Có nhiều ngôi chùa bị san phẳng trong chiến tranh, dân làng cùng nhau xây dựng lại và đến khi quan tâm đến di sản, chúng ta cứ ngỡ rằng đó là những ngôi chùa cổ, nhưng thực chất là những ngôi chùa đã được xây mới chỉ cách đây vài chục năm. Vì lẽ đó, nhiều nơi có điều kiện đầu tư lớn đã quyết định xây mới lại trên những ngôi chùa đã không còn là cổ, mà chỉ còn một số đồ thờ tự là cổ thôi.

Còn đối với những di sản còn nguyên vẹn từ thời xa xưa để lại thì hỏng đâu, sửa đó chứ không có một kế họach trùng tu cho thật khoa học và giữ vững nguyên gốc, từ bố cục kiến trúc đến việc hài hòa cảnh quan, dẫn đến có đủ thứ đồ thờ cúng cổ kim được bày tràn ngập trong không gian thờ tự.

Điều chúng ta lo ngại là có nhiều nơi, những ngôi chùa tuy được trùng tu nhiều lần nhưng nét cổ và vật liệu xây dựng kiên cố, vẫn giữ được khá nguyên vẹn, nhưng vì nhỏ so với điều kiện sinh hoạt của dân số bây giờ, nên chùa cho xây mới thêm một số dãy nhà. Tuy nhiên khi nhìn vào những dãy nhà mới xây đó, chúng ta không thấy được sự hài hòa, lề lối khi một ông già (bằng gỗ) với một cô gái trẻ (bằng xi măng, ngói tôn kẽm) đứng gần nhau một cách vô cùng chỏi, gây cảm giác rất khó chịu. Có thể nói không quá rằng, những hành vi làm mới thiếu cân nhắc, thiếu kiến thức về tu bổ di sản, sắp đặt không gian xây dựng công trình (mới cũ) lộn xộn là góp phần làm cho di sản trở nên xô bồ, thiếu thẩm mỹ.

Các triều đại đi trước họ cũng trùng tu, xây mới những di sản trước đó khi bị xuống cấp, nhưng họ tuân thủ rất nghiêm quy tắc xây dựng, đặc biệt nó phản mang bản sắc và âm hưởng của mỗi vùng miền và quy chuẩn xây dựng của triều đại, từ họa tiết trang trí đến gạch ngói xây dựng. Không phải chúng ta không cho trùng tu hay xây lại, nhưng phải có bước đi cho thật khoa học và hài hòa. Ngày xưa họ rất chú trọng vào tỉ lệ, bố cục, hình kiểu, mục đích sử dụng xây cao bao nhiêu, xây rộng mức nào…

Dĩ nhiên, chùa chiền ở cái thời dân số cả nước có vài triệu người khác với chùa chiền khi dân số quá đông (86 triệu) như hiện nay. Việc mở rộng là một đòi hỏi khách quan. Điều vướng mắc là chúng ta còn đặt nhiều tình cảm dành cho kiến trúc cổ bằng gỗ, đó là tâm thức hiếu cổ rất đáng khuyến khích. Nhưng không có nghĩa vì vậy mà chùa chiền xây mới, hay trùng tu không được dùng những vật liệu nào khác xưa. Nếu ngôi chùa không được xây bằng các hợp chất tốt như vôi, mật, gạo nếp… mà chỉ là vôi cát thì chắc chắn không thể bền hơn một số vật liệu đương đại, đặc biệt là xi - măng.

Như vậy để có thể so sánh về mặt bền vững, lâu dài của vật liệu cần có một cuộc khảo sát tỉ mỉ, khoa học về các loại vật liệu trong trùng tu xây dựng đình chùa. Nhiều người cảm thấy dị ứng với xi-măng, sắt thép là rất thiếu căn cứ. Bằng chứng các công trình thế kỷ hiện nay trên khắp thế giới đều phải sử dụng đến những vật liệu này. Điều chúng ta quan tâm là vật liệu ấy khi xây dựng chùa chiền được phối hợp sử dụng ở mức độ nào, và kiến trúc phải tuân thủ ra sao để có được những kiến trúc hài hòa, có giá trị tiếp nối với xưa nhiều nhất. Chúng ta không vì “lệ cổ” quá nhiều mà không có tìm tòi sáng tạo ra những mẫu kiến trúc mang vóc dáng thời đại. Trong kiến trúc, điêu khắc đình chùa, mỗi thời đại đều khắc dấu ấn của mình vào đó, thậm chí mỗi địa phương cũng để lại những đường nét riêng rất đáng trân trọng. Chùa Một Cột, độc nhất vô nhị là sự sáng tạo có một không hai, nhưng không có sự phản đối nào mà còn là niềm tự hào chung của Phật giáo trải qua nhiều triều đại.

Vì không có chuẩn trong kiến trúc đình chùa, do không sáng tạo hay do không có sự quan tâm đến “thể diện di sản thời đại” cho nên chúng ta có cảm giác xô bồ, mạnh ai nấy làm. Cứ nhìn kiến trúc đền chùa được xây mới của chúng ta thì rõ, không có một chuẩn nào cả, thậm chí cũng không mang âm hưởng thời đại. Đình chùa nào thích mái cong thì để cong, đình chùa nào thích mái thẳng thì để thẳng. Đình chùa nào xây dựng theo mẫu kiến trúc thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn thì theo. Thậm chí pha trộn, “chắp vá” các phong cách kiến trúc khác nhau trong cùng một công trình.

Ngày xưa xây đình chùa là các quan đệ đơn lên cấp trên theo thỉnh nguyện của nhân dân, vì vậy tùy theo làng xã đó có bao nhiêu hộ, ruộng đất rộng bao nhiêu mà chính quyền cho phép xây cất theo chỉ tiêu loại hạng nào. Ví dụ chùa do đích thân nhà vua xây sẽ gọi là quốc tự…

Nay ở những nơi cần chùa để sinh hoạt tín ngưỡng, người dân phải tự thân vận động, không ai cố vấn cho họ phải xây thế nào, vì vậy họ có tiền đến đâu họ xây đến đó, miễn là đáp ứng nhu cầu tạm thời và cấp thiết của dân chúng. Rồi sau có điều kiện sẽ mở mang khang trang hơn. Chính vì vậy, đến nhiều vùng thôn quê, nhiều nơi chỉ có chùa mái tôn, xếp gạch làm bệ thờ, chẳng có gì là thẩm mỹ cả, nhưng cái tâm, cái lòng thuần phác, nhân hậu của họ thì không thua những nơi có ngôi chùa cổ lâu đời, to lớn, đẹp đẽ.

Chúng ta đối với di sản phải có những bước đi thận trọng cụ thể nhưng cũng không vì thế mà phản đối tất cả mọi hình thức trùng tu hay xây mới các công trình đền chùa. Sự thẩm định và đánh giá di sản từ niên đại, cổ vật, giá trị văn hóa lịch sử cho đến vật liệu là vô cùng quan trọng. Bởi trong khi cả xã hội mạnh ai người nấy có tiền cứ ào ào xây dựng, nhà ống, nhà liên kế… nhà cao tầng chót vót mọc khắp hang cùng ngõ hẻm, không nể gì đến việc thu hẹp không gian của những di sản văn hóa, miễn rằng tôi toàn quyền xây dựng trên mảnh đất của tôi. Vì vậy có những ngôi chùa cổ còn xót lại trong thành phố bị xâm lấn không gian một cách thê thảm, nhà cao bao quanh đến mức không còn nhận ra ở đó đang hiện diện một ngôi chùa cổ.

Ngày xưa, chùa bao giờ cũng có những khoảng đất rộng để tách biệt với dân, nếu ai có xây nhà gần đó thì cũng không thể xây cao hơn điện thờ Phật, vì nhân dân quan niệm ngủ cao hơn Phật là có tội. Nhưng bây giờ tâm thức đó không còn. Và vì thế di sản cũng bị xâm lấn một cách đáng báo động như hàng quán, lều bạt buôn bán, thậm chí nhà ở, công trình vệ sinh cũng được mặc sức lấn vào đất chùa. Không dựng rào, xây tường thì sẽ nhanh chóng bị lấn chiếm, nhưng khi dựng rào xây tường thì ngôi chùa trở nên tù túng và đầy cảnh giác.

Không phải chỉ có lòng “hiếu cổ” là đủ để vãn hồi những hệ quả của nhiều những chính sách và đường lối khách quan và chủ quan khác nhau liên quan đến nhận thức về di sản. Chúng ta cần tìm ra một sự hài hòa trong quan điểm về kiến trúc, đặc biệt nên điều chỉnh và xây dựng một lộ trình trong quy hoạch kiến trúc đình chùa cũng như hướng dẫn cụ thể trong công tác trùng tu di sản văn hóa để luôn đảm bảo những giá trị văn hóa lịch sử và nhận biết được sự tiếp nối giữa quá khứ và hiện tại trong cảnh quan kiến trúc.

Riêng đối chùa chiền, chủ thể quản lý là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đại diện là Tăng Ni, Phật tử được cử giữ trách nhiệm coi sóc. Nhà nước và Giáo hội Phật giáo nên phân loại di sản. Những di sản được công nhận di tích lịch sử văn hóa, từ cấp độ quốc gia đến cấp độ tỉnh thành, để đưa vào danh sách quan tâm đặc biệt. Bất cứ sự trùng tu, xây mới nào, thậm chí là sơn phết, tu bổ tượng Phật, đồ thờ cúng… đều phải nghiên cứu kỹ luật di sản, kết hợp với các cơ quan chức năng có liên quan đề có một giải pháp tối ưu, tránh sự vội vàng, chủ quan, vì ứng xử với di sản không chỉ là một ứng xử văn hóa mà còn là ứng xử tâm linh. Mỗi bậc đá, hòn ngói, viên gạch, ngọn cỏ, bóng cây đều mang hồn dáng của người xưa, tình cảm, tâm nguyện của người xưa, vì vậy chúng ta phải trân trọng nâng niu. Giáo dục ý thức di sản chẳng phải bắt nguồn từ những việc nhỏ như vậy sao? Đối với các di sản chưa được công nhận di tích những còn bảo lưu nhiều giá trị kiến trúc, cũng như văn hóa lịch sử thì xúc tiến để được công nhận di tích lịch sử văn hóa.

Nếu những công trình kiến trúc đã nhiều lần được xây mới thì có thể tùy theo nhu cầu và tâm nguyện của Phật tử mà trùng tu, xây dựng. Riêng đối với những dự án lớn Giáo hội Phật giáo cần phải kết hợp với các bên có liên quan để cố vấn và có những bước đi cụ thể để làm sao công trình đó nhận được sự hỗ trợ vật chất, tinh thần tối đa nhằm tạo nên những công trình kiến trúc mang giá trị thời đại.

Vấn đề xây dựng, trùng tu di tích Phật giáo những năm gần đây ngày càng trở nên nóng và bức thiết. Vì không có một lộ trình và hướng đi cụ thể nên tạo ra những luồng dư luận trái chiều, thậm chí ở nhiều nơi do các vị được bổ nhiệm chưa hiểu luật di sản, cũng như những kiến thức về văn hóa, lịch sử, về kỹ thuật tu bổ nên đã làm mới lại không ít các di vật cổ một cách tắc trách, khiến hình ảnh những ngôi chùa và những người chịu trách nhiệm trở nên phản cảm trong con mắt của giới mỹ thuật và các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa.

Thiết nghĩ, Giáo hội Phật giáo nên bầu ra Ban văn hóa và di sản. Ban này gồm những thành viên của Ban văn hóa cũ, đồng thời chân thành mời những người có uy tín trong nhiều lĩnh vực xã hội như lịch sử, văn hóa, kiến trúc, khảo cổ… tham gia, nhằm mang đến những tư vấn kịp thời đáp ứng được nhu cầu xây dựng, trùng tu mới nhiều công trình đang xuống cấp, hoặc đang cần mở mang. Ban Văn hóa Di sản không chỉ theo dõi, tổng hợp những số liệu liên quan đến di sản mà còn đánh giá di sản. Ban này cũng có thể đề xuất với Giáo hội về việc xây mới các công trình Phật giáo tại các địa phương có nhu cầu tín ngưỡng cao mà chưa có chùa. Để chánh pháp được rộng mở, nên có quỹ Văn hóa và di sản. Nguồn kinh tài do quy định mức đóng góp tại các tự viện (phân loại tự viện lớn nhỏ để đóng góp cho phù hợp), hay do các tổ chức xã hội, công ty, cá nhân Tăng Ni, Phật tử đóng góp. Ưu tiên khảo sát và thí điểm triển khai ở từng địa phương cụ thể, có nhu cầu cấp thiết. Những người được giao về quản lý do tỉnh hội Phật giáo đề xuất hoặc do Giáo hội cắt cử. Nếu làm được việc này chánh pháp sẽ được lan tỏa, tinh thần lục hòa (đặc biệt ý nghĩa lợi “hòa đồng quân”) sẽ gắn kết các ngôi chùa, các vùng miền lại với nhau, làm tăng uy tín và ảnh hưởng của các cấp lãnh đạo giáo hội, tránh được những việc làm tự phát mà những tháo gỡ về sau gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là liên quan đến vấn đề pháp lý.

Giáo hội nên hướng tới điều này, bởi chúng ta không nên để có những nơi thì “đói khát” chùa chiền, còn những nơi thì “bội thực” trong các công trình quá ư to lớn và lãng phí. No dồn đói góp, nhiều nơi di sản Phật giáo bị “bội thực” bằng cách tận dụng mọi cách để làm mới cổ vật, sơn phết đủ màu, đèn điện chớp nháy khắp nơi… Điều này trở thành nguyên nhân của những sự phê phán từ các giới có chuyên môn. Những kiến thức như thẩm mỹ, kiến trúc, điêu khắc, văn hóa, lịch sử… ở đâu mà người trông coi lại có thể ứng xử như vậy với di sản văn hóa, với các hiện vật cổ có giá trị?

Trước kia di sản do chiến tranh, thiên tai, và những chính sách tôn giáo không đầy đủ làm cho bị tiêu hủy, bị mai một, nhân tâm hoang mang, lòng người ly tán, niềm tin phân ngả, chùa, đền, đình, miếu bị bỏ hoang không người coi sóc, dẫn đến tàn tạ. Nay có đủ và dư điều kiện thì lại ồ ạt quyên góp, sửa chữa, xây mới, xây to trong khi chưa có một quy cách nào cho thật hài hòa để đủ sức thuyết phục dư luận xã hội.

Không nhìn nhận thực tế của vấn đề di sản hiện nay, chúng ta khó có thể tạo dựng một tương lai vững bền cho di sản. Vì nếu đời sau, do những điều kiện lịch sử nào đó biến động, những công trình mà hiện nay chúng ta xây mới lại từ di sản cũ, không biết sẽ nhận được sự ứng xử theo chiều hướng nào?

Nam Quốc