Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009

10 SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG NĂM 2009


Những sự kiện Phật giáo nổi bật trong năm 2009 tiếp tục thu hút sự chú ý quan tâm của dư luận xã hội. Đó là dấu hiệu khởi động cho những hoạt động Phật sự đi vào bài bản trong những năm tiếp theo, đặc biệt năm 2010 diễn ra hai sự kiện lớn của dân tộc và Phật giáo: Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ VI. Để tạo đà cho sức sáng tạo, cũng như để các sự kiện đi vào thực tế cuộc sống, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp lãnh đạo và các ban, ngành, viện trung ương Giáo hội.
 Năm 2009 cũng là năm Phật giáo Việt Nam phải đối mặt với nạn sư giả hoành hành, đời sống đạo đức của một bộ phận tu sĩ và Phật tử có biểu hiện tiêu cực, chạy theo lối sống hình thức.

1. Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới cung đón tượng Ngọc Phật Hoà Bình


 Tượng Phật ngọc được đặt tên là The Jade Buddha for universal peace (Phật ngọc cho hòa bình thế giới) sẽ được đưa đi trưng bày vòng quanh thế giới. Việt Nam là nước đầu tiên được vinh dự cung đó và tôn trí Phật ngọc trên cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Tượng được trưng bày tại 6 ngôi chùa lớn từ ngày 13/3 đến ngày 22/5/2009: Chùa Quán Thế Âm (Non Nước, Đà Nẵng), Chùa Đại Tùng Lâm (Bà Rịa - Vũng Tàu), Chùa Phổ Quang (Tân Bình, TP. HCM), Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn, TP. HCM), Chùa Vạn An (Châu Thành, Đồng Tháp), Chùa Phật Tích (Bắc Ninh), đón hàng triệu người đến chiêm bái.
Mục đích của việc triển lãm tượng Phật Ngọc là tạo cơ duyên cho nhiều người đến chiêm bái, đảnh lễ, có dịp hiểu rõ hơn về giá trị của hòa bình, không phân biệt tôn giáo, cùng cầu nguyện Phật Ngọc sẽ đem lại hòa bình cho thế giới, bình an cho các mối quan hệ, bình yên cho gia đình và bè bạn, sự thanh thản trong tâm hồn.
2. Đại lễ rước, cung nghinh xá lợi Đức Phật lớn nhất Việt Nam

Ngày 6/6/2009 (14-5 năm Kỷ Sửu), Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Đại lễ rước, cung nghinh ngọc xá lợi Phật từ Tổ đình Giác Quang, TP.HCM về tôn thờ tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) và chùa Bái Đính (Ninh Bình). Đây là một sự kiện văn hóa Phật giáo đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc đối với tăng ni, phật tử trong cả nước trong việc chiêm bái, tu tập cũng như tôn vinh các giá trị văn hóa của giáo lý đạo Phật trong cuộc sống.
Lễ rước diễn ra với quy mô chưa từng có với khoảng 150 Chư Tôn đức thuộc các tỉnh phía Nam và TPHCM cùng các bảo tháp có đặt xá lợi Phật và xá lợi Thánh tăng, được vận chuyển theo đường hàng không trên chuyên cơ đặc biệt của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam, từ sân bay Tân Sơn Nhất đến sân bay Nội Bài. Lễ cung nghinh bắt đầu từ sân bay Nội Bài, ngọc xá lợi Phật được đưa về trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo VN tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) và được nghênh đón về an vị vĩnh viễn tại chùa Bái Đính (Ninh Bình).
3. Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới Lần thứ XI tại Việt Nam

Hội nghị diễn ra từ ngày 28/12/2009 đến ngày 03/01/2010 tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, chùa Phổ Quang, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh. Có hơn 2.500  Đại biểu tham dự, trong đó có gần 400 Đại biểu quốc tế đến từ 37 quốc gia, vùng lãnh thổ, gồm Ni trưởng, Ni sư, Ni cô đại diện Ni giới và các giáo sư, học giả, diễn giả, nhà nghiên cứu đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu... đại diện nữ Phật tử. Chủ đề chính là “Nữ giới Phật giáo lỗi lạc”.
Chủ đề Hội nghị lần này là Nữ giới Phật giáo lỗi lạc nhằm tôn vinh những thành tựu của nữ giới Phật giáo, thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị của nữ giới trên khắp thế giới, qua Hội nghị để nữ giới Phật giáo được trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động, kinh nghiệm tu tập của những người nữ Phật giáo trên khắp thế giới qua đã giúp nhau cùng vượt qua những thử thách để đạt được an lạc hạnh phúc. Thông qua Hội nghị sẽ làm cho bạn bè đến từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ hiểu thêm về sự phát triển của Việt Nam, hiểu biết về Giáo hội Phật giáo Việt Nam và những thành tựu của nữ giới Phật giáo Việt Nam cũng như truyền thống phụ nữ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc.
4. Giáo hội thành lập Phân ban đặc trách Ni giới

Ngày 1/1/2009, tại Hội trường Thiền viện Quảng Đức (Văn phòng II TƯGH), Quận 3, TPHCM, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức lễ ra mắt Phân ban đặc trách Ni giới. Phân ban gồm: Ban Chứng minh (08 vị), Ban Cố vấn (10 vị) và Thường trực Phân ban đặc trách Ni giới (20 vị), Ủy viên (27 vị), Ủy viên dự khuyết (19 vị). Ni trưởng Thích Nữ Huyền Huệ (TPHCM) được Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử làm trưởng ban. Phân ban Đặc trách Ni giới thuộc Ban Tăng sự Trung ương.
Mục đích tôn chỉ của Phân ban đặc trách Ni giới: Thống nhất lãnh đạo, quản lý Ni giới trong cả nước theo quy định của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nội quy Ban Tăng sự Trung ương và Pháp luật Nhà nước; Phối hợp với Phân ban Đặc trách Ni giới các Tỉnh, Thành hội Phật giáo để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Trung ương Giáo hội và Ban Tăng sự Trung ương giao phó trong việc truyền bá Chánh pháp, chấn chỉnh sinh hoạt của Ni giới và củng cố giềng mối Giới luật Phật chế, Bát kỉnh pháp; Quản lý việc sinh hoạt, tu học của các cơ sở Ni giới theo Hiến chương GHPGVN và Pháp luật Nhà nước.
5. Tuần văn hoá Phật giáo và Hội thảo văn hoá của Ban Văn hoá Trung ương tại TP. Nha Trang


Khóa Hội thảo - Bồi dưỡng kiến thức và hoạt động văn hóa Phật giáo toàn quốc diễn ra từ ngày 2 đến ngày 5/12/2009 tại Hội trường khách sạn Hòn Ngọc Việt, Nha Trang, Khánh Hòa. Chủ đề chính là “Văn hóa Phật giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc”. Dự kiến có khoảng 200 đại biểu gồm các Uỷ viên Ban Văn hóa Trung ương, Uỷ viên văn hoá của các đơn vị tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước. Tổ chức thảo luận về các hoạt động văn hoá Phật giáo hiện nay và những năm kế tiếp theo tinh thần đạo pháp gắn liền với dân tộc. Hoạt động diễn ra với sự đóng góp của các học giả, các nhà nghiên cứu chuyên môn về lĩnh vực văn hoá và văn hoá Phật giáo.
Cũng trong dịp này, Ban Văn hoá Trung ương phối hợp với Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa tổ chức Tuần văn hoá Phật giáo từ ngày 30/11 đến ngày 5/12/2009 với các hoạt động triễn lãm tranh ảnh, chiếu phim, ca nhạc… hưởng ứng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Bản đạo ca được dàn dựng công phu, bài bản nhất từ trước đến nay được ra mắt trong dịp này.

6. Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội triển khai Phật sự trong nhiệm kỳ mới

Sáng ngày 14/4/2009 tại Hội trường chùa Pháp Lâm (TP. Đà Nẵng), Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội đã tổ chức khai giảng Khóa Bồi dưỡng và tập huấn hoằng pháp toàn quốc với sự tham dự của hơn 350 đại biểu của 53 tỉnh thành trong cả nước. Với chủ đề “Hoằng pháp trong thời kỳ hội nhập & phát triển”, Giáo hội đặt trọng tâm công tác hoằng pháp với mục tiêu tạo con đường truyền bá chánh pháp một cách đồng bộ từ các địa phương. Khóa học và hội thảo hoằng pháp năm 2009 là một bước ngoặc của ngành Hoằng pháp trong giai đoạn mới, tạo tiền đề xiển dương chánh pháp đem đến sự lợi đạo ích đời.
7. Đại lễ Phật đản 2553 - 2009 tại thủ đô Hà Nội


Ngày 9/5/2009 (15/4 âm lịch), Đại lễ Phật đản Phật lịch 2553 - 2009 đã long trọng diễn ra tại quảng trường 1/5, Hà Nội. Hàng vạn người dân từ khắp các quận, huyện, thị trong toàn thành phố đã về dự với niềm đại hân hoan và tự hào. Năm nay là năm đầu tiên, tăng ni Phật tử Thủ đô đón mừng Đại lễ Phật đản sau khi đã hợp nhất Phật giáo Hà Nội với Phật giáo Hà Tây (cũ) nên sức cộng hưởng của lễ hội thật lớn lao. Đã có nhiều hoạt động hoằng pháp, hoạt động xã hội lớn, thu hút tăng ni, Phật tử các chùa ở toàn thành phố tham gia nhằm hướng về Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ VI sẽ được tổ chức tại Việt Nam vào trung tuần tháng 11/2010,. Tại Cung văn hoá Hữu nghị Việt - Xô, Trung ương Giáo hội và Ban trị sự Thành hội Phật giáo TP Hà Nội tổ chức đêm văn nghệ kính mừng Phật đản.
Đây là lần đầu tiên Phật giáo thủ đô có những hoạt động chào mừng Phật đản ấn tượng với cờ đèn, xe hoa rực rỡ. Đại lễ Phật đản đã hồi sinh, trở thành ngày hội văn hoá tâm linh của người dân thủ đô Hà Nội.

8. Đại lễ Quy y cho gần 4.000 đồng bào dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên

Ngày 19/4/2009, Đại lễ Quy y cho gần 4.000 đồng bào dân tộc do Ban trị sự Phật giáo tỉnh Kon Tum kết hợp Tiểu ban Phật tử Dân tộc ít người thuộc Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương tổ chức đã chính thức diễn ra tại Tổ đình Bác Ái, Thị xã Kon Tum. Đối với người mới bước chân vào con đường đạo, ngày Lễ quy y là một sự kiện vô cùng trọng đại. Sau Lễ quy y, họ trở thành Phật tử. Người Phật tử không chỉ biết cung kính tôn thờ Phật, mà từ đó Phật tánh được đánh thức, mọi suy nghĩ, việc làm, hành động đều hướng đến những việc làm tốt đẹp.
Hòa thượng Thích Thiện Duyên, Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương khẳng định: “Chúng ta cần phải đoàn kết đùm bọc nhau, thương yêu nhau để san sẻ cho nhau những điều mình có được, kể cả vật chất lẫn giáo pháp nhiệm mầu của đức Thế Tôn. Mong rằng các vị sẽ lấy ngày hôm nay làm ngày kỉ niệm đặc biệt trong việc chuyển hướng đời mình. Hãy cùng nhau giúp đỡ khuyên nhắc bà con thân hữu về với Đạo pháp, về với Giáo hội, hãy chung tay góp sức xây dựng đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam có một đời sống hòa bình an vui, giàu, đẹp”.
9. Khởi công xây dựng khu di tích Thánh tử đạo Thích Nguyên Hương

Nhận được sự quan tâm của Chư Tôn đức lãnh đạo Trung ương Giáo hội, các Ban Trị sự Phật giáo và Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước, ngày 15/11/2009 Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Thuận đã tổ chức trọng thể lễ đặt đá khởi công xây dựng Khu di tích Thánh tử đạo Thích Nguyên Hương tại thị trấn Liên Hương, Tuy Phong, Bình Thuận, để tưởng niệm Thánh tử đạo Thích Nguyên Hương vị pháp thiêu thân.
Cùng với ngọn đuốc của Bồ tát Thích Quảng Đức, ngọn đuốc Thánh tử đạo Thích Nguyên Hương tại tỉnh Bình Thuận đã trở thành một trong những biểu tượng bất diệt cho phong trào đấu tranh của nhân dân và Phật giáo miền Nam chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.
10. Lễ hội ẩm thực chay mùa Vu lan Báo hiếu 


Sáng ngày 20/8/2009, Lễ hội “Ẩm thực chay mùa báo hiếu” chính thức khai mạc tại Nhà Thiếu nhi thành phố mở đầu cho mùa Vu lan báo hiếu. Buổi sáng khai mạc, hơn 2.000 người gồm Chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, đại diện các ban ngành đoàn thể và người dân TP.HCM đã tới tham dự. Lễ hội có khoảng 60 gian hàng ẩm thực chay của các quán ăn chay với các món chay tinh khiết, phong phú và đa dạng.
Lễ hội ẩm thực chay mùa báo hiếu nhằm đền đáp tứ trọng ân của người con Phật, ngoài ra còn phổ biến cách ăn chay khoa học để người dân giữ gìn sức khỏe và góp phần với cộng đồng quốc tế đang khẩn thiết kêu gọi ngăn chặn sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Ngày hội ẩm thực chay Vu lan nên được tổ chức hằng năm để đưa ẩm thực chay hòa vào truyền thống văn hóa ẩm thực của dân tộc Việt Nam.

Theo: Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam

ĐỐI THOẠI, MỘT MẪU THỨC KHOAN DUNG TƯ TƯỞNG



Đối thoại là một trong những nguyên tắc khôn ngoan để duy trì hòa hợp và hòa bình. Trong đó, phản biện đóng vai trò quan trọng nhằm điều chỉnh và bổ túc nhận thức cho mỗi bên trong quá trình tham dự đối thoại. Truyền thống “vấn đáp” trong đạo Phật là biểu hiện sinh động của phương thức đối thoại trực tiếp. Đối thoại như vậy nhằm nâng cao nhận thức trước các vấn đề mà cuộc sống con người đặt ra. Ở đó, sự phản biện nhằm công bố những nhận thức đa chiều, tác động vào nhận thức đối tượng, tìm tiếng nói chung trong hoàn cảnh những bất đồng đang được nuỗi dưỡng để trở thành sự phản đối, phê phán, bài xích, thậm chí là bạo động.

Dân tộc Việt Nam từng tồn tại mô hình “Tam giáo đồng nguyên”. Đó là một di sản tinh thần có giá trị tư tưởng văn hóa đáng được trở thành giáo khoa trong mọi quá trình phát triển văn hóa giáo dục. Sự “cùng tồn tại” của Tam giáo nêu bật giá trị của tương quan và liên đới trách nhiệm. Không có một sự “đồng nguyên” nào cho thấy nó phải hoàn toàn vắng mặt sự phản biện hay phê phán. Vì chính phản biện là kênh giao tiếp duy nhất có thể tác động vào tư tưởng người khác, nhằm cân bằng nhận thức trước sự phong phú đa dạng của các luồng tư tưởng khác biệt trong xã hội. Thẳng thắn tỏ bày chính kiến luôn luôn có sự tác động hai chiều, do đó những luận điểm đưa ra cần phải có tính thuyết phục đối với những đòi hỏi của một mô hình xã hội đang thu hút nhiều nguồn lực, cũng như tập hợp những phản biện đa chiều.

Các tông phái của đạo Phật ở từng thời điểm, hoàn cảnh lịch sử cụ thể cũng đậm nhạt chỉ ra những cách thức đối thoại, thậm chí phê phán ở một mặt bằng nhận thức có độ chênh nhất định khi tiếp thu các giá trị nền tảng khác nhau để trải nghiệm giáo lý cũng như đề cao các giá trị văn hoá dân tộc. Và do đó, tuy cùng có một không gian chung là danh xưng đạo Phật, nhưng cách thức tiếp cận và thực nghiệm tâm linh lại có những khác biệt trong “sự” và “lý”. Nhưng đó là những khác biệt trong tương quan, liên đới. Loại trừ sự khác biệt không nằm trong nguyên tắc ứng xử của đối thoại. Và vì thế, nếu động cơ ban đầu là mục đích “loại trừ” thì không nên đặt ra các giá trị khác như công lý, hòa bình, lắng nghe… trên bàn đối thoại.

Những cách nghĩ cho rằng đạo Phật là thế này hay thế khác theo một cách tiếp cận chủ quan nào đó đã khiến cho đạo Phật trở nên là một hình thức cố định. Chẳng hạn khi nhà nho nhìn nhận ở một góc độ nào đó nói rằng đạo Phật là dị đoan, thì chính cách nhìn ấy đã phản chiếu vào mọi nội dung Phật giáo, dẫn đến một lối mòn trong suy nghĩ khi cho rằng tất cả mọi thứ thuộc về đạo Phật đều là di đoan.

Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong cách nhìn phiến diện và đầy thành kiến của sử nho Ngô Sĩ Liên, mặc dù ông khen ngợi rất nhiều các vị vua Phật tử là anh minh, nhân hiếu, trí dũng…, song cứ nhắc đến sự ủng hộ đạo Phật của họ là ông phán ngay rằng “chẳng đáng quý gì”, “lụy cho đức tốt”... Như vậy những giá trị tương quan đã bị tâm lý bài tha ngăn chặn, từ đó nảy sinh những định kiến rất khó bỏ. Đạo Phật trong nhận thức của mỗi người một khác, và đạo Phật trong nhận thức cá nhân ở những thời điểm khác nhau cũng có những biến chuyển. Đạo Phật có nhiều pháp môn, tông phái nhưng đạo Phật không phải là tổ chức chính trị, chính vì thế dù sống trong bất cứ môi trường nào đạo Phật cũng giữ được những giá trị tương quan của mình với thời thế.

Sự khó khăn trong hầu hết những đối thoại đều đến từ lực cản của nhận thức chủ quan, cảm tính và định kiến. Do đó đối thoại chỉ trở thành những ứng xử văn hóa có tầm khi nhận thức của những người tham gia đối thoại đều phải ở một mức độ bao quát và quan sát rộng. Đối thoại vừa phá vỡ và mừa mở ra nhận thức về một vấn đề. Nên có những lúc, sau đối thoại, người ta phải trải qua giai đoạn đấu tranh mâu thuẫn để điều chỉnh nhận thức. Lúc đó, trước những cú “sốc” nhất thời đòi hỏi người ta phải có sự dũng cảm để chuyển hóa những định kiến, do những tri giác chưa đầy đủ đã lập nên trong các giai đoạn nhận thức trước đó.

Những khác biệt trong nhận thức là thực tế khách quan của xã hội, song hầu hết mọi nhận thức đều được những chuẩn lợi ích hướng dẫn: lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình, lợi ích tổ chức và lợi ích dân tộc. Những lợi ích nào ở tầm rộng lớn thì sẽ được ý thức của con người bảo lưu trong đời sống ứng xử xã hội và trở nên phổ biến. Lịch sử tư tuởng con người bị tổn thương bởi chính những tri giác sai lầm khi đóng khung định kiến trong ý thức loại trừ nhau hay độc tôn tư tưởng bằng nhiều hình thức.

“Tam giáo đồng nguyên” là một mô hình xã hội được cổ vũ và diễn đạt dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Mô hình này tồn tại có những cơ sở lịch sử xã hội của bản thân nó. Từ trong lý thuyết, thực tiễn trải nghiệm, hầu hết các tư tưởng đều gặp nhau ở sự chia sẻ chung trong quá trình đem lại các giá trị và ích lợi trực tiếp cho con người. Có nghĩa rằng, con người (thiên hạ, lòng dân) thường được đặt làm trung tâm cho mọi lý giải, nhằm bù đắp những khoảng trống về đạo đức, văn hóa, lối sống.

Không thể đổ hết lỗi lầm trong đối kháng tư tưởng cho những nhà cầm quyền dù lúc này hay lúc kia họ gia tăng khoảng cách qua thái độ lựa chọn và ủng hộ cho một đường lối tư tưởng, tôn giáo nào đó. Nhưng sẽ là sai lầm, nếu lựa chọn tôn giáo nào đó chỉ nhằm cái mục đích loại trừ tôn giáo kia. Bởi chính kiến của họ có thể hiện như thế nào thì trước nhất cũng phải tạo nên những giá trị và ích lợi thực sự trong quá trình tiến tới sự hòa hợp và quy tụ mọi sức mạnh lớn nhất về với sức mạnh cầm quyền trong ngoại giao, chính trị, quân sự, tôn giáo, văn hóa, kinh tế...

Sự thống nhất trong hài hòa ích lợi của các tư tưởng phải căn bản dựa trên lợi ích chung của cả dân tộc, ở đó những giá trị lịch sử về nòi giống, huyết thống luôn có những sự cố kết chặt chẽ, nhiều khi chi phối mạnh mẽ vào trong nhận thức, tư tưởng, dần hình thành chủ nghĩa yêu nước, thương dân. Mọi tư tưởng đều chỉ là ngoại diên của khái niệm đồng bào, lòng dân... Đây chính là lý do, mô hình “Tam giáo đồng nguyên” không bao giờ chỉ do một tư tưởng khởi xướng, độc thoại... Muốn có mô hình “Tam giáo đồng nguyên” thì phải có những con người “Tam giáo”. Vậy những yếu tố “đồng dị” nào để người ta có thể thống nhất được với nhau mà phân chia trách nhiệm vai trò trong xã hội?

Muốn có những con người tam giáo thì trước hết, nền giáo dục nước nhà phải là nền giáo dục “Tam giáo”. Cuộc thi Tam giáo lần đầu tiên được vua Lý Cao Tông tổ chức vào năm 1195, nhằm tuyển dụng những con người có ích cho đất nước. Năm 1247, Trần Thái Tông, vị vua mở đầu triều Trần cũng cho mở cuộc thi Tam giáo. Vua Trần Thái Tông phát biểu rất rõ: “Nào biết bồ đề, giác tính ai nấy viên thành; hay đâu trí tuệ, thiện căn người người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn, tiển ẩn; đâu nề tại gia, xuất gia. Chẳng nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nệ tướng? Người chưa hiểu, chia bừa thành tam giáo, giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm…” (Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề).

Vua Trần Thái Tông còn viết: “Lục tổ có nói:Bậc thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau”. Như thế đủ biết Đại giáo của Đức Phật ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời. Thế thì nay lẽ nào trẫm không coi trách nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của Đức Phật là giáo lý của mình ư!” (Tựa Thiền tông chỉ nam).

Các giá trị tư tưởng được giáo dục và ứng dụng phổ biến trong thời đại đó, không chỉ chứng tỏ ý thức trọng hiền tài trong thời Lý - Trần mà còn mở ra tự do đối thoại từ những tầng lớp sĩ phu ưu tú nhất của dân tộc. Thời Lý - Trần, Phật giáo làm quốc giáo, nhưng chúng ta may mắn khi có những vị vua Phật tử sáng suốt, biết đặt lợi ích của dân tộc và tính thiện của người dân lên trên hết. Chưa tìm thấy bất cứ một văn bản nào thời đại đó nói lên sự kỳ thị, bài xích các tư tưởng khác nơi các trí thức Phật giáo, vì vốn dĩ họ hiểu và dung hòa được mọi phương tiện trên con đường minh triết.

Vào thời Trần, có hai nhà nho tiêu biểu là Trương Hán Siêu và Lê Bá Quát nói về Phật giáo ở những góc nhìn khác nhau.

Lê Bá Quát viết: Thuyết họa phúc của nhà Phật tác động tới con người, sao mà được người ta tin theo sâu sắc và bền vững như thế? Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật, thì dẫu đến hết tiền của cũng không sẻn tiếc. Nếu ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì mừng rỡ như nắm được khoán ước để lấy quả báo ngày sau. Cho nên trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho tới thôn cùng ngõ hẻm, không mệnh lệnh mà người ta vẫn theo, không thề thốt mà người ta vẫn tin. Chỗ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi lại sửa, chuông trống lâu đài chiếm đến nửa phần so với dân cư, đạo Phật hưng thịnh rất dễ mà được rất mực tôn sùng. Ta thuở trẻ đọc sách, để tâm khảo xét xưa nay, cũng hiểu sơ sơ đạo của thánh nhân để giáo hoá dân chúng mà rốt cuộc vẫn chưa được một hương tin theo. Ta thường dạo xem sông núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi tìm những “Học cung”, “Văn miếu” mà chưa hề thấy một ngôi nào! Đó là điều khiến ta vô cùng hổ thẹn với bọn tín đồ nhà Phật. Bèn viết ra đây để tỏ lòng ta” (Văn bia chùa Thiệu Phúc)

Trương Hán Siêu viết: “Tượng giáo đặt ra là để đạo Phật dùng làm phương tiện tế độ chúng sinh; chính vì muốn khiến cho những kẻ ngu mà không giác ngộ, mê mà không tỉnh lấy đó làm nơi trở về với thiện nghiệp. Thế nhưng những kẻ giảo hoạt trong bọn sư sãi lại bỏ mất cái bản ý “khổ không” của đạo Phật mà chỉ chăm lo chiếm những nơi đất tốt cảnh đẹp, tự giát vàng nạm ngọc cho chỗ ở của chúng rực rỡ, tô điểm cho môn đồ của chúng lộng lẫy như voi rồng. Đương thời bọn có quyền thế, bọn ngoại đạo a dua lại đua đòi hùa theo…” (Văn bia chùa Khai Nghiêm)

Khi Phật giáo đứng ở vai trò được nhà nước đề cao, thì điều căn bản nhất trong đối thoại của trí thức Phật giáo là lắng nghe những tiếng nói từ một góc tiếp cận khác. Và họ đã làm được điều đó để viết lên tinh thần đối thoại có một không hai trong lịch sử dân tộc. Chỉ có những con người đứng ở tầm cao của đối thoại mới có thể hóa giải những xung đột tư tưởng đang chứa nhóm và có thể bùng cháy bất cứ lúc nào khi có điều kiện. Đó chính là bản lĩnh văn hóa mang tầm vóc thời đại được thể hiện qua thực tiễn ứng xử chuẩn mực, đem lại lợi ích cho một nhà nước đang rất cần sự khẳng định về độc lập và tự chủ. Thực tế, trí thức Phật giáo lúc đó là những người có đủ thẩm quyền về học vấn, nhận thức chính trị xã hội để đối diện và phản ứng lại với mọi công kích nhằm làm giảm uy thế của họ.

Nhưng họ nhận thấy ở Trương Hán Siêu có một khí khái của người quân tử, khi ông không chống tư tưởng giáo lý của đạo Phật mà ông chống những người đang thực hành sai những giáo lý ấy. Điều này phù hợp với nhận thức của những trí thức Phật giáo có tâm huyết với tiền đồ của đạo pháp và dân tộc. Và trong lời lẽ phê phán của Trương Hán Siêu họ đã nhìn ra những vấn nạn của người tu hành khi dựa dẫm vào quyền lợi thế tục. Chính vì lẽ đó, họ đã trân trọng khắc những phát biểu của Trương Hán Siêu vào văn bia, dựng ngay trước cửa chùa như một bài cảnh tỉnh giới tu hành đã đi sai con đường của Phật tổ.

Điều này cũng cho thấy, giáo lý của đạo Phật thực sự đã thấm nhuần trong xã hội, vì vậy họ không bao giờ đánh đồng hình thức vào nội dung để tìm đến những kết luận vội vã. Nhân cách của Trương Hán Siêu sẽ không được đề cao nếu ông đi theo vết xe đổ của Thái úy Đàm Dĩ Mông thời Lý khi công kích vào giáo lý Phật giáo. Nhưng ông đã trở thành người có bản lĩnh văn hóa khi đề cập đến những vấn đề nhức nhối trong đời sống sinh hoạt Phật giáo thời thịnh Trần. Chính vì chọn cách tiếp cận thực tiễn đó mà văn bia chùa Khai Nghiêm đã trở thành biểu tượng của đối thoại văn hóa được diễn ra một cách công khai, cởi mở trước một lực lượng trí thức Phật giáo hùng hậu trong xã hội.

Lịch sử cũng hơn một lần chỉ ra những mánh khóe núp dưới hình thức “đối thoại”, “điều trần”, nhằm triệt tiêu tư tưởng, kết nên bè đảng, gây rối loạn cho xã hội. Đàm Dĩ Mông thời Lý viết “Phán tăng đồ” với mục đích loại trừ Phật giáo ra khỏi đời sống, nhưng dù có tận dụng mọi cách để trở thành “người hùng” thì Đàm Dĩ Mông cũng không làm giảm đi hình ảnh của một con người mọt nước hại dân, bất trung, bất nghĩa qua những ứng xử phơi bày nhiều toan tính bất ổn.  

Nhưng Phật giáo đã không cần phải tìm mọi cách để ngăn cản những điều mà người khác nói ngược ý mình, nói bất lợi cho mình, làm giảm uy tín của tôn giáo mình như những phản ứng tự vệ thường tình. Đó là sức mạnh của sự khoan dung tư tưởng trong đối thoại, đồng thời thể hiện sự dũng cảm của người phê phán và người tiếp nhận sự phê phán. Chính vì bản lĩnh văn hóa mà Trương Hán Siêu và một số trí thức Phật giáo đương thời đã là những người mở đầu cho giai đoạn phản biện xã hội, đối thoại xã hội, và vận dụng đối thoại để sàng lọc các định kiến tư tưởng. Tinh thần trên là một trong những điều hấp dẫn không ít nho sĩ đến với những triết lý cao siêu của nhà Phật khi họ từ bỏ chốn quan trường lui về ở ẩn, dần hình thành trong xã hội cả một xu hướng “cư Nho mộ Thích”. Bản thân Trương Hán Siêu lúc về cuối đời cũng gần gũi với Phật giáo để tìm sự bình an trong tâm hồn. Ông viết: “Phù thế như kim biệt, Nhàn danh ngộ tạc phi (Từ khi cách xa cõi đời trôi nổi, Được tiếng nhàn mới biết trước đây mình đã sai - Dục Thúy sơn).

Phát biểu quan trọng của Trần Thái Tông về đạo Phật và đạo Thánh hiền trên phương diện quốc gia: coi trách nhiệm của bậc tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của Đức Phật là giáo lý của mình, đã chủ trương tinh thần “Nho, Phật phân công”. Bởi ở những bối cảnh thực tiễn của lịch sử, các tư tưởng phải tự điều chỉnh để thích nghi và vận dụng có hiệu quả nhất những giá trị tư tưởng, văn hóa, tinh thần, tâm linh vào xã hội. Và thực tiễn lịch sử đã chỉ ra những mặt mạnh yếu khác nhau của từng tư tưởng. Điều này có tác dụng làm giảm đi nhiệt tình độc tôn tư tưởng và các tham vọng chính trị cực đoan khác.

Trong thời đại mà sự khẳng định độc lập chủ quyền và sự phục hưng dân tộc trở nên mạnh mẽ, những phát biểu thẳng thắn luôn được chấp nhận, đề cao, bởi ít nhiều bộ máy chính quyền đã ý thực rất rõ việc coi trọng trí thức, hiền tài. Bên cạnh đó, nhân cách “trung dung”, giáo lý “trung đạo”, đạo của người quân tử xuất xử, hành tàng… đã cân bằng các nguyện vọng, niềm tin, tri thức phát triển. Và chính mối ưu tư về xã tắc, cộng đồng, nhiệt huyết lập thân, lập danh đã thôi thúc những con người ở các khuynh hướng tư tưởng đối lập khác nhau dấn thân nhập thế, cũng như khẳng định mẫu hình nhân cách cao khiết.

Bản lĩnh văn hóa trong đối thoại được thẳng thắn bộc lộ thể hiện những dự cảm, trực cảm về nhiều những bất ổn và khiếm khuyết đang hiện diện trong đời sống xã hội. Đó là “mối tiên ưu” về một tương lai không xa của dân tộc. Giữ trong nhận thức “mối tiên ưu” ấy sẽ khiến họ nhanh chóng thoát ra khỏi những ích kỷ bản thân, nhìn ra những điều mà cả xã hội (trong cơn men say của vinh dự, tự hào nào đó) đã ngủ quên trước những thực tiễn nhức nhối đang cần chấn chỉnh.

Có thể, sự phát biểu nào đó làm cho thông tin ở những cấp quan trọng nhất bị chao đảo trong nhận thức. Nhưng giá trị phải được thực tiễn sàng lọc, nếu không bỏ đi một nhận thức lỗi thời thì không thể thêm vào một nhận thức phù hợp. “Bất phá bất lập, bất lập bất phá” là phép biện chứng tự nhiên được khéo léo vận dụng vào trong ứng xử Tam giáo. Tinh thần Phật giáo không cho phép xa rời sự dũng cảm trong nhận thức và ứng xử: Cái gì chưa tốt thì nên mạnh dạn chỉnh cho tốt; Cái gì đã xấu thì đừng tiếp tục cho xấu nữa…

Cảnh báo xã hội chính là những nội dung mà Trương Hán Siêu đã đưa ra trong một phương tiện thông tin để đời là bia đá. Cảnh báo ấy không chỉ chuyển tải những nội hàm đối thoại mà cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị thời đại và thời sự, rằng thanh lọc định kiến và thanh trừng tư tưởng là hai vấn đề mà người trí thức phải vượt qua trước những động cơ được thôi thúc từ bên trong. Khi tư duy “giấy trắng mực đen” còn được xem như là xác suất của “chân lý”, thì những ứng xử văn hóa, đối thoại cũng gắn chặt với điều này và thường dẫn đến tình trạng ứng phó “xấu che, tốt khoe”. Vậy mà nghìn năm sau, dù thời thế có thịnh suy đắp đổi thì cũng không một người Phật tử Việt Nam nào, để bênh vực, biện hộ cho tôn giáo mình mà phá bỏ những điều Trương Hán Siêu đã viết.

Họ cùng nhau nâng cấp cho trình độ đối thoại thời đại trong khát vọng hoàn thiện và đi tới. Những sai lầm của lịch sử có lẽ nào lại không xuất phát từ sự hà khắc, bất dung trong tư tưởng?

Muốn nâng tầm văn hóa nên đi sâu vào trong thực tại đa chiều của bối cảnh văn hóa. Và trí thức thời đại phải là những người có khả năng ra vào trong Tam giáo, đôi lúc họ cần can đảm từ bỏ những nhận thức cũ của mình để trở về với nguyên lý trung đạo hay đạo trung dung. Lịch sử không cần bào chữa cho thái độ nhiệt tình “ở ẩn” của những người từng gắn bó với xu hướng tư tưởng nào, vì từ nhiều phía nhận thức, họ đã có một kết luận riêng cho chính cuộc đời của họ: công thành thân thoái. Nguyễn Trãi nói “Ẩn chẳng rừng sâu là đại ẩn. Chùa nhà tu Phật mới chân tu”. Đó chính là bản lĩnh văn hóa khi dám nhìn thẳng vào những sai lầm của bản thân mình.

Tâm linh, tư tưởng, chính trị, tri kiến độc lập, tự do, tự chủ đều ít nhiều gắn liền với những biểu hiện trữ tình của quê hương, sông núi. Quê hương là nguồn mạch để tìm về sự dung hòa văn hóa. Vì lẽ đó, mọi hận thù, mọi hờn trách, mọi thăng trầm trên con đường hoan lộ của thế giới vô thường, hư ảo, phù trầm… đến một lúc nào đó sẽ thôi thúc sự tiếp cận với nguồn tri thức ẩn dật để đẩy lên thành một lý thuyết tồn tại cao khiết. Ở đó, quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn trở thành nguồn cội của những ứng xử coi trọng về nhân nghĩa, tình cảm, tâm linh. Bước chân vào không gian ấy, ai có thể cao ngạo xướng lên những hư danh giả tạm của bản thân? Thực tiễn thăng trầm của lịch sử đó đã hóa giải tất cả mọi vẫy vùng tư tưởng, mọi nhiệt tình tranh nhân, tranh ngã đế một thời điểm nào đó, người trí thức dân tộc tiến tới nhận thức dung hợp giữa nội tâm và ngoại giới.

Đó cũng là lúc người trí thức đối thoại nhiều nhất với bản thân mình. Không ít người đã từng xây những pháo đài to lớn về tư tưởng để thực hiện những cuộc “long trời lở đất” để rồi những sinh linh của dân tộc lại thất thểu dọc ngang trong trường dạ tối tăm. Nguyễn Trãi chỉ đến cuối đời mới có thể dũng cảm mà thốt lên: “Ta dư cửu bị nho quan ngộ” (Bấy lâu ta đã bị cái mũ nhà nho nó chụp làm cho sai lầm). Cái lý thuyết “nhân nghĩa” được ra rả đề cao từ bên kia biên giới như một gáo nước lạnh dội vào tận cùng tim óc của ông khi nghịch cảnh “nướng dân đen vùi con đỏ” không thể bào chữa vẫn còn in đậm trong ý thức lịch sử.

Lịch sử là một diễn biến có ý thức, nhưng vì sốt sắng muốn vĩnh cửu những cái vốn dĩ là tương đối, con người đã từng hơn một lần không ngần ngại xóa sổ sự tương quan, liên đới chỉ vì thành kiến tư tưởng và độc quyền chân lý. Khoan dung tôn giáo, tư tưởng được tổ tiên ta gây dựng không đi ra ngoài ý nghĩa của ước vọng thái bình và xây dựng nền độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

1. Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần tập II quyển thượng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 748.

2. Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 Bản in Nội các quan bản, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2003, tr. 237.


Thích Thanh Thắng

(Theo: Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam)



Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2009

NGƯỜI CON GÁI LÀNH CỦA ĐỨC THẾ TÔN



Việt Nam là một nước có truyền thống văn hoá Phật giáo lâu đời. Lịch sử dân tộc từng ghi nhận những người phụ nữ Phật tử đứng ở ngôi vương, ngôi hậu…. Họ là những bậc nữ lưu tài hoa xuất chúng được xã hội cảm phục. Họ dạy dân giữ làng giữ nước, chăm lo sản xuất, giữ vững giềng mối tâm linh truyền thống. Và có người trong số họ đã hiển thánh, đã hóa ngôi vị Phật bà được thờ cúng trang nghiêm trong nhiều đền chùa với ý nghĩa phù trợ cho mưa thuận gió hòa, gia đình ấm no hạnh phúc, đất nước thanh bình phát triển.

Đức Kiều Đàm di mẫu đã từng đi bộ suốt 200 cây số từ kinh thành Ca Tỳ La Vệ đến thành Tỳ Xá Ly để khẩn thỉnh Đức Thế Tôn cho nữ giới được xuất gia sống đời phạm hạnh. Ngài A Nan vì hiểu rõ tâm nguyện của Đức Kiều Đàm, nên đã ba lần khẩn thỉnh Đức Thế Tôn thương tưởng chấp nhận cho người nữ được xuất gia. Công lao to lớn đó của các bậc tiền nhân chính là sự chuyển tiếp những giá trị bình đẳng, công bằng đầy ý nghĩa cho thời đại. Nhằm nâng tầm giá trị và tiến bộ của người phụ nữ Phật tử, chúng ta cần đặt giá trị ấy tương quan với những yêu cầu cấp thiết về sự bình đẳng giới trong phạm vi toàn xã hội.
S mệnh của người phụ nữ Phật giáo đang được đặt ra một cách cấp thiết trong tinh thần hòa hợp và đi tới. Sự hòa hợp đó không chỉ vì tầm nhìn của một sự đổi thay mang tính kỹ thuật trong một xã hội đòi hỏi những yếu tố tiến bộ, hiện đại mà sự hòa hợp đó còn cho chúng ta những giá trị bình an từ trong tâm. Và hòa hợp để chúng ta bày tỏ niềm kính tin tuyệt đối với những điều Đức Phật đã dạy trên tinh thần giải thoát và giác ngộ.
Không một giá trị nào trong kinh điển không cần chúng ta phải nghiền ngẫm hay nhắc lại ở những cấp độ nhận thức khác nhau. Nhưng nếu chỉ tìm những ý nghĩa “đúng-sai” trong lời dạy của Đức Phật, chúng ta sẽ không bao giờ chạm đến giá trị đích thực của lời dạy với ý nghĩa giáo lý chỉ là phương tiện, là chiếc bè đưa người qua bên kia bến bờ an vui. Và giới hạn trong nhận thức sẽ khiến chúng ta khó tiếp cận với phương tiện mà Đức Phật đã ân cần chỉ dạy.
Hàng năm, những người con gái lành của Đức Thế Tôn nhóm họp định kỳ để lắng nghe những tiếng nói quan trọng của người phụ nữ Phật tử, vì trước mắt chúng ta là cả một thế giới tương quan với những cuộc khủng hoảng ở phạm vi toàn cầu từ kinh tế, chính trị đến môi trường sống. Điều đó đang tác động trực tiếp đến ngôi nhà chung Phật pháp, đến chị em chúng ta trong những hoàn cảnh sống khác biệt.
Một ngôi nhà dù tối cả trăm năm nhưng chỉ cần thắp ngọn đèn lên thì mọi vật đều sẽ sáng tỏ. Đó là ý nghĩa: Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Và sự “xuất chúng” của người phụ nữ Phật tử có lẽ nào không xuất phát từ chính công việc thắp sáng ngôi nhà mà mình đang sống.
Những mâu thuẫn quốc gia, sắc tộc, tôn giáo, những phản ứng dữ dội của thiên nhiên, những đói nghèo bệnh tật, những hoàn cảnh phân biệt kỳ thị giới, những yếu kém về thể chất và tinh thần thời đại…, tất cả điều đó đều là biểu hiện của những ý nghĩ, hành vi tiêu cực do chúng ta đã và đang sử dụng sai năng lực của chính mình. Sự hoang phí năng lực đó đang được đầu tư vào những cạnh tranh vô bổ và lãng phí khi trước mắt chúng ta là mối tương quan, tương duyên không thể tách rời giữa con người và môi trường sống.
Sự khẳng định nào cũng sẽ là ích kỷ nếu không thể đi ra ngoài những phân biệt và kỳ thị kể trên. Chúng ta không thể dùng chính sự phân biệt để chống lại sự phân biệt mà vốn dĩ chúng ta từng cho đó là sự bạo hành, bất bình đẳng về giới, sự chống đối tư tưởng tự do, tiến bộ của con người.
Đức Phật đã khéo léo vận dụng nhiều phượng tiện để chúng ta tự hoàn thiện mình ở cấp độ tự thắp sáng năng lực, hóa giải và hòa hợp trước mọi hoàn cảnh sống. Đó không phải là cam chịu và nhẫn nhục một cách mù quáng mà đó là tâm từ bi, lòng trắc ẩn trước những khổ đau, bất hạnh của đồng loại.
Việc cần làm của chúng ta ngày hôm nay là cùng ngồi lại với nhau trong mục đích thống nhất và hòa hợp để triển khai nhiều hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa sự tự thắp sáng, hơn là ngồi để dằn vặt với những xung đột ích kỷ cá nhân mà vốn dĩ những mức độ tràn lan của nó vẫn đang bị điều hiện hóa bởi nhiều hoàn cảnh sống khác biệt. Nhiệm vụ của chúng ta là nói lên tiếng nói cảm thông để những người anh chị em của chúng ta lắng nghe, hiểu và làm đúng với những điều Đức Phật đã dạy: Mọi loài chúng sinh đều có Phật tính; Hãy lấy giới luật làm thầy…
Chúng ta nên cung cấp nhiều hơn những cách nhìn tích cực về người phụ nữ Phật tử. Và chúng ta phải chứng minh điều đó bằng thực tiễn sống và tu tập của bản thân. Bởi lẽ sự tương kính sẽ luôn đem lại giá trị của lòng tự trọng và sự tôn trọng. Không một ai đem sự kính trọng đi mà không nhận lại được sự kính trọng. Nguyên lý nhân quả đã khẳng định rõ như vậy. Hãy quán chiếu sâu vào sự bình an nội tại, ở đó sự tương kính trong một gia đình giữa người nam và người nữ, vốn đã là những kết luận sâu sắc về tình yêu thương: Anh em như thể chân tay. Mất cái tay hay cái chân thì cơ thể chúng ta sẽ mất cân bằng.

Trước sự đóng góp vào quá trình phát triển chung của xã hội, chúng ta có nhiệm vụ kêu gọi hãy chấm dứt sự kỳ thị và những cung cách ứng xử trịch thượng, mệnh lệnh, không xuất phát từ sự tương kính và tôn trọng nhân phẩm. Kêu gọi đó thể hiện mục đích duy nhất của chúng ta là đưa xã hội tiến gần hơn đến sự công bằng. Sự kêu gọi bình đẳng giới không phải việc làm ích kỷ cá nhân và không nên xuất phát từ động cơ thiếu thiện chí hòa hợp. Những lời trách móc thị phi, sự đổ lỗi, thái độ giận dữ đều không làm cho chúng ta tiến bộ hơn trong con đường tu tập, bởi chúng ta đã là người “phụ nữ Phật tử”, và giáo lý của chúng ta không phải là học thuyết tư tưởng “đấu tranh xã hội”. Hơn nữa, những định kiến, giáo điều về giới tính phần nào cũng do thái độ sống thụ động của chính chúng ta góp sức xây nên.
Sự bình đẳng, tự do, hòa hợp không thể tự có, nên trong chính chúng ta, sức mạnh của lòng từ bi là sức mạnh lớn nhất để chúng ta vươn lên chứng minh và khẳng định chúng ta là những người con gái lành thực sự của Đức Thế Tôn. Để từ đó, những người anh chị em của chúng ta thấy chúng ta như một phần máu thịt của chính mình. Đức Phật từng dạy, hãy nhìn những người phụ nữ lớn tuổi cũng như ít tuổi mà coi họ như những người chị, người em ruột thịt của chính mình để che chở, bảo vệ. Sự an trú trong tâm từ bi là sự an trú giúp chúng ta trưởng thành theo thời gian.
Chúng ta đang đi trên con đường của những người anh chị em đã từng là tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh của chúng ta xây đắp nên. Thừa hưởng điều đó, chúng ta nên hướng nhận thức của mình nhiều hơn đến đồng loại, rằng nhiều người trong số họ vẫn phải chịu sống một cách đầy khó khăn với những đau khổ, đói lạnh, bệnh tật, hoang mang, đọa đày trong chiến tranh, trong sự khắc nghiệt của thiên tai, bệnh dịch. Sự “xuất chúng” của chị em chúng ta không chỉ thể hiện ở số đông những người có bằng cấp cao trong những ngôi trường danh tiếng thế giới mà còn là nhận thức chung trước những liên đới xã hội mà chúng ta không phải là người đứng ngoài chứng kiến. Người phụ nữ là một nửa sự sáng tạo của thế giới. Nhiệm vụ chính yếu của chúng ta là phải sử dụng trí tuệ và sự sáng tạo ấy để giảm bớt những nhân tai và thiên tai đang từng giờ, từng phút gây ra cho con người.
Người ta nói, đường đi ngắn không đi không bao giờ tới. Mỗi ngày làm được một điều thiện nhỏ, thêm được một ý nghĩ lành nhỏ là chúng ta đang cần mẫn góp nhặt cho thế giới một sự an vui lớn. Chúng ta hãy ngồi bình tâm để lắng nghe những tiếng nói, những hành động nào từ cuộc sống đang đem đến cho chúng ta một cuộc sống tốt đẹp, an nhàn trong khi máu xương, mồ hôi nước mắt của biết bao những người mẹ, người chị, người em của chúng ta đã đổ xuống để đất dữ hóa lành. Nhìn ra sự tương quan ấy, những uất ức về giới tính như một cách khẳng định bản ngã của chị em chúng ta chỉ là giả tạm.
Mục tiêu của chúng ta hôm nay là vượt qua những khác biệt về giới, về hoàn cảnh xuất thân, tông phái để hướng tâm vào những đóng góp thiết thực cho xã hội. Và đó cũng là ý nghĩa cao cả nhất của sự hy sinh. Bằng không sự tranh đấu của chúng ta chỉ làm gia tăng những phiền não, chỉ trích và chống đối. Chúng ta sẽ làm gì để theo kịp những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật trong thời đại mà chúng ta đang sống, để không chỉ nâng cao trình độ nhận thức thực tiễn mà còn chứng tỏ những người phụ nữ Phật tử không hề kém sáng tạo hơn bất cứ ai trong xã hội.
Vậy thì chúng ta phải biến ước muốn thành hiện thực. Chúng ta phải có trường đại học riêng dành cho nữ Phật tử với những kiến thức chuyên môn cơ bản và những phân tích tích cực trong tìm hiểu những tiến bộ của thời đại, làm sao cho phù hợp với thể chất và tâm sinh lý của nữ giới. Nhất định chúng ta sẽ tập trung được trí tuệ để mở màn cho những đề xuất mới, táo bạo và thiết thực hơn, song song với việc giữ vững truyền thống tu tập trong tông môn của mình. Hiểu mình, nắm rõ được năng lực của mình, chúng ta sẽ đi xa hơn trên con đường mà Đức Phật đã khai mở. Sẽ có những anh chị em thắc mắc về “tham vọng” của chúng ta. Nhưng điều khẳng định “Phụ nữ Phật giáo xuất chúng” không còn nằm ở những hình thức lực lượng chúng ta nhiều hay ít mà ở chất lượng sáng tạo của chị em chúng ta trong ngôi nhà chung Phật pháp và trong sự vận động nhiều đổi thay của xã hội.
Không phải sự dấn thân của chị em chúng ta còn hạn chế, càng không phải do những người anh em không hoàn toàn tin tưởng chúng ta, không đề cử chúng ta vào những vị trí quan trọng trong giáo hội mà là việc làm thường ngày của chúng ta vẫn chưa tỏ ra tích cực, hữu hiệu. Và một nguyên nhân quan trọng là trong nhiều hoàn cảnh tín ngưỡng, các tư tưởng phân biệt nam nữ đã đan xen vào hệ thống giáo dục của chúng ta ở những thời kỳ Phật giáo mất định hướng và lâm vào khủng hoảng.
Chúng ta có quyền đặt câu hỏi, liệu một nữ Phật tử có thể là Chủ tịch hay Phó chủ tịch để điều hành Giáo hội, giống như thế gian có những người phụ nữ làm tổng thống, thủ tướng hay không? Đó không phải là câu hỏi thiếu thực tế mà sự thiếu thực tế nằm trong chính bản thân chúng ta, rằng chúng ta chưa chuẩn bị gì nhiều cho những mong muốn chính đáng và cao đẹp đó. Chị em chúng ta đã tự tạo cho mình những khoảng cách đối lập bằng sự sợ hãi chứ không phải bằng sự tương kính. Trong Bát kính pháp, Đức Thế Tôn muốn chúng ta giữ chữ kính không phải bằng thái độ run sợ. Lấy kính mà đối đãi thì nhận về sự kính trọng. Nhưng lấy sợ làm phương thức sống thì sự lấn lướt về giới tính sẽ xảy ra, chúng ta sẽ đánh mất sự tương quan và lòng tự trọng của phẩm cách.
Sức mạnh nội tại tạo ra sự phong phú và thịnh vượng. Chúng ta hãy khẳng định rằng chúng ta làm được. Người con gái lành của Đức Thế Tôn lẽ nào lại không tích cực trau dồi đạo hạnh, lẽ nào không mạnh dạn dấn thân để làm sáng ngôi nhà của mình để đem lại cho số đông những giá trị và ích lợi thiết thực?
Câu hỏi này xin để chị em chúng ta cùng suy nghĩ. Mặt đất dưới chân chúng ta đang chuyển động, nhưng chúng ta đã run sợ trước những nguy hiểm và khó khăn do chính chúng ta tưởng tượng ra. Chúng ta chưa đủ năng lực xả thân cầu pháp như nhiều tấm gương mà những người anh em chúng ta đã làm. Thực tế này chúng ta phải chiêm nghiệm nhiều hơn trong lịch sử. Xin từ bỏ những lo sợ và cả những điều không chính đáng mà chính chúng ta tạo lập nên trong quá trình tu tập. Chị em chúng ta cần có sự bảo vệ che chở, nhưng chúng ta cũng có đầy đủ năng lực và điều kiện để bảo vệ, che chở cho những người anh em chúng ta. Sức mạnh của phụ nữ Phật tử là sức mạnh của sự thận trọng, mềm mỏng, mẫu mực và khiêm nhường. Ở đó, lòng từ bi là sức mạnh lớn nhất. Và không phải ngẫu nhiên chư Phật, chư Bồ tát lại hiện thân như những người mẹ hiền, cưu mang, tần tảo để giữ ấm cho gia đình và cộng đồng.

Trong nhiều quốc độ ngôn ngữ, văn hóa, chị em chúng ta hội tụ về đây không chỉ để biểu dương những nhận thức mới mẻ đã được củng cố và phát triển trong mấy chục năm qua, mà chúng ta muốn nói rằng, qua công nghệ thông tin, qua những nỗ lực cống hiến và hàn gắn ở mỗi quốc gia, chị em chúng ta đã nhận ra trái đất như nhỏ lại trong khi sự trải nghiệm, lòng trắc ẩn, tâm từ bi của chúng ta ngày càng lớn hơn, rộng mở hơn. Chúng ta nguyện cùng với những người anh chị em của mình đoàn kết lại để giữ vững hình ảnh của một tôn giáo luôn đề cao những giá trị của trí tuệ, tiến bộ và hòa bình.
Có thể trong một quốc độ nào đó những giáo điều đã làm cho một số chị em cảm thấy mình chưa được tôn trọng. Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta phải làm sáng tỏ hơn những quốc độ mà sự giáo điều đã được sử dụng nhằm gây nên những khoảng cách văn hóa và định kiến trầm trọng về giới tính. Thực tế vẫn còn những người trong hàng lãnh đạo đã đứng sai chỗ khi o bế đời sống của chị em chúng ta bằng nhận thức hời hợt về giới tính. Nhưng chúng ta sẵn sàng lắng nghe và đưa năng lực của mình ra bằng sự kính trọng, bằng từ bi, trí tuệ để họ có thể buông bỏ những khắc nghiệt trong định kiến về giới tính khi xem chị em chúng ta như những chướng nạn trên con đường tu tập.
Suy nghĩ như vậy không thể nhận được sự cỗ vũ của chính chị em chúng ta, bởi trong hoàn cảnh đảm bảo sức sáng tạo và sự tự do, chúng ta phải tồn tại để chứng minh cho sự chuyển hướng và điều chỉnh nhận thức của xã hội, rằng những người nữ Phật tử có thể đóng góp nhiều hơn nữa cho tương lai của sự ổn định toàn cầu. Ngay bây giờ chúng ta hãy đến gần với những người chị em trong quê hương huyết thống và quê hương tâm linh để chia sẻ với họ nhiều hơn nữa những nỗi bất công và thống khổ; đem đến sự cần bằng trong tinh thần và vật chất cho những ai còn thiếu may mắn hơn chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể có hạnh phúc và bình yên khi những người chị người em thân yêu của chúng ta còn đang chịu nhiều khổ đau, bất hạnh? Tinh thần phục sự đạo pháp và xã hội chính là sự sẵn lòng hy sinh để tìm kiếm, chia sẻ những lợi ích chung cho cộng đồng. Sống thân thiện, đoàn kết, lương thiện và tử tế với bạn bè, anh em, với láng giềng, cộng đồng trong những lúc khó khăn, thách thức cũng như lúc thanh bình sẽ giúp cho chị em chúng ta có những gia đình vững chắc, những nền tảng xã hội căn bản để tạo dựng hạnh phúc. Cống hiến những giá trị cao đẹp cho những hoàn cảnh khó khăn phức tạp càng làm cho chị em chúng ta trưởng thành hơn trong tu tập, đúng với bốn đức lớn Từ-Bi-Hỷ-Xả mà Đức Phật đã dạy.
Những giá trị đạo đức mà chị em chúng ta xiển dương phải luôn phù hợp với tư tưởng thời đại và pháp luật của mọi quốc gia. Đó là những giá trị bền vững, giúp chúng ta tin tưởng trong quá trình tiếp cận xã hội một cách sâu rộng, bài bản và khoa học hơn.
Mọi “hóa thành” sẽ hiện ra khi chúng ta mệt mỏi, nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải gắn chặt mình vào với cái “hóa thành” đầy ảo ảnh đó để hưởng thụ sự cung phụng mà chính chúng ta phải biết tồn tại bằng mọi nghị lực khi “hóa thành” một ngày kia biến mất.
Việt Nam là một đất nước hồi sinh mạnh mẽ từ sau một thế kỷ đầy biến động khắc nghiệt của chiến tranh. Điều đó luôn thúc đẩy người dân Việt Nam, người phụ nữ Phật tử ý thức giữ gìn nền độc lập, hòa bình, tự chủ. Việt Nam luôn là quê hương của những ứng xử hòa bình, bởi vì Việt Nam đã sống và vươn lên bằng tinh thần của một dân tộc có hơn 2.000 năm Phật hóa. Và hôm nay, Hội nghị SAKYADHITA Lần thứ XI được tổ chức trên quê hương chúng ta đã tô đậm thêm những giá trị hòa bình thiết thực cho trang sử Phật giáo Việt Nam.

Thích nữ Tịnh Nguyện
(Theo Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam)


Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

TRẦN NHÂN TÔNG: GIỮ GIỚI TRONG SẠCH ĐỂ LÀM GÌ?


“Giữ giới trong sạch để làm gì?” là một nghi vấn tích cực mang giá trị tư tưởng, nhằm gợi mở và điều chỉnh những nhận thức đúng về giới. Tuệ Trung Thượng Sĩ là người có đầy đủ tư cách để “ấn chứng” cho Trần Nhân Tông điều quan trọng này. Nhưng vấn đề giữ giới hay không giữ giới có liên quan gì đến quan niệm thiện ác của thời đại? Thế nào mới gọi là giữ giới trong sạch? Trong sạch là so với cái gì mà trở nên trong sạch?
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi khoác tăng bào ở tuổi 40 đã chu du khắp nơi để thuyết pháp, giảng kinh, khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, và từng trở về kinh đô Thăng Long tổ chức lễ thụ Bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và quan lại triều đình. Tam tổ thực lục chép rằng, mùa Đông năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), Trần Anh Tông (1293-1314) đã “dâng biểu mời Điều Ngự [Trần Nhân Tông] vào Đại Nội để thọ tâm giới tại gia Bồ tát. Ngày [Điều Ngự] vào thành, vương công, bách quan sắm lễ nghi đầy đủ đón rước xa giá của Điều Ngự, rồi cùng thọ giới pháp(1).
Nhiều những vị vua nhà Trần đều mộ đạo và tích cực ủng hộ Phật pháp, hành trạng của họ không khác hành trạng của những vị thiền sư xuất trần. Vua Trần Thái Tông là người quan tâm đặc biệt tới giới luật, ông từng viết văn răn về năm giới và bàn luận về vấn đề thụ giới: “… Giới như mặt đất bằng, mọi điều thiện từ đó sinh ra. Giới như thầy thuốc giỏi chữa được các bệnh. Giới như hạt minh châu phá vỡ mọi tối tăm. Giới như thuyền bè vượt qua bể khổ. Giới như chuỗi ngọc làm pháp thân trang nghiêm… Bậc cổ đức có nói: qua sông nên dùng mảng, đến bến hết cần thuyền. Như vậy người xưa coi giới là thuyền là mảng. Ngày nay những người không dùng phương tiện đó qua sông mà tới được bờ bên kia thì thực là hiếm vậy” (Bàn về thụ giới) (2). Vì vậy, thời Trần xuất hiện tình trạng “lấy địa vị vua chúa mà làm đại sĩ, hoàng hậu mà làm tỳ khưu, khanh tướng mà làm thầy chùa” (Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn) (3).
Thời điểm đó, Phật giáo làm quốc giáo, nhưng các tôn giáo khác như Nho giáo, Lão giáo với các nguyên tắc đạo đức được quy định chặt chẽ trong đời sống ứng xử phổ biến từ vua tôi đến cha con, chồng vợ…, cũng phần nào có những điểm phù hợp, bổ sung vào hệ thống luật pháp và quan điểm của nhà cầm quyền.
Những tệ đoan dần phát sinh khi Phật giáo quá thịnh, số lượng người đi xuất gia không được tuyển chọn kỹ, thanh quy chốn thiền môn bị mai một. Vì vậy vấn đề giới luật càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của triều đình và giáo hội nhà Trần. Nhận thức đúng về giới luật cũng là mối quan tâm đặc biệt của vua Trần Nhân Tông, để làm sao giới luật không bị đồng hóa với các phạm trù chức năng, tránh xa được đạo đức giáo điều, phù hợp với những triết lý nền tảng khác của Phật giáo.
Đặc điểm nhân sinh quan nổi bật trong tư tưởng Trần Nhân Tông chính là nhận thức và ứng dụng giới luật Phật giáo vào cuộc sống. Bởi giới luật là một yếu tố bổ túc quan trọng vào đạo đức xã hội, pháp luật, thậm chí cả trong đời sống chính trị. Giới không mâu thuẫn với hệ thống pháp luật, phong tục, tín ngưỡng mà còn thúc đẩy, khắc dấu ấn quan trọng vào nền văn hóa, văn minh Đại Việt.
Trần Nhân Tông đặt câu hỏi nghiêm túc với Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”, khi trước đó ông đã thắc mắc: “Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt thì làm sao tránh được tội báo?”. Người ở ngôi vị đứng đầu quốc gia hỏi việc “giữ giới trong sạch để làm gì?”, hẳn rất quan tâm đến mục đích, đường hướng đạo đức của một dân tộc.
“Để làm gì?” là một nghi vấn tích cực mang giá trị tư tưởng, nhằm gợi mở và điều chỉnh những nhận thức đúng về giới. Tuệ Trung Thượng Sĩ là người có đầy đủ tư cách để “ấn chứng” cho Trần Nhân Tông điều quan trọng này (4).
Nhưng vấn đề giữ giới hay không giữ giới có liên quan gì đến quan niệm thiện ác của thời đại? Thế nào mới gọi là giữ giới trong sạch? Trong sạch là so với cái gì mà trở nên trong sạch?
Tư duy phân loại thiện ác
Cách nghĩ phổ biến cho rằng, quá trình “nhuần thánh hóa” diễn ra rất dễ dàng bằng giáo dục đạo đức, chỉ cần phân loại và đưa ra những “quy định”, “mệnh lệnh” bắt buộc (cấm) là có thể loại bỏ cái xấu ra khỏi đời sống. Có quan niệm cho rằng con người là “chủ thể” và khách thể là phần còn lại của thế giới mà nhận thức con người hướng vào. Vì là “chủ thể” nên con người cho rằng mình nắm quyền “cải tạo” xã hội và thế giới. Trong các mối quan hệ giữa người và người, mục đích của “cải tạo” đầu tiên là con người, vì con người được đặt trong phạm trù “ý thức hệ” về hành vi đạo đức mà biểu hiện của nó là thiện (theo một trật tự đạo đức) và ác (không theo một trật tự đạo đức).
Có nhiều “hệ giá trị” để phân định một cách rạch ròi thế nào là “thiện” và thế nào là “ác”. Xã hội thường được quản lý trên nền tảng của tư duy phân loại, nhiều khi bằng hình thức loại trừ, bài trừ. Tuy đã có rất nhiều quy định pháp luật nhưng cái ác lại không giảm đi một cách nhanh chóng cùng những quy định ấy. Sự phát triển văn minh, văn hóa bổ sung thêm nhiều những quy chuẩn đạo đức, nhưng hình như các chuẩn mực làm người vẫn bị bỏ quên, cái ác có vẻ lấn lướt, tinh vi và phức tạp hơn.
Trong quá trình gắng gượng “loại” cái ác ra khỏi cuộc sống, con người đã tự đặt mình vào thế đối lập sống còn với cái ác. Những tưởng rằng khi xã hội hoàn thiện trong việc quy định hành vi là có thể bao quát được tất cả mọi biến động xã hội. Thực tế cho thấy, đã có nhiều triều đại phát triển đến đỉnh cao, nhưng rồi sau đó lại nhanh chóng suy tàn. Vậy quan niệm đạo đức nào đã tham gia vào quá trình thay đổi này? Thiện hay là ác? Hay cả hai cùng tham dự vào việc phá vỡ cái cấu trúc vốn khá trật tự của một xã hội? Tính tiếp diễn của lịch sử cần phải chứng minh cho luận điểm thiện ác, bởi nó cùng lúc tham gia vào quá trình phá vỡ và mở ra này.
Cùng với nhận thức chung của nhân loại, Phật giáo cũng đề cao những hành vi đạo đức hướng thượng, nhưng sự khác biệt lớn nhất của Phật giáo chính là không đối lập thiện ác, có nghĩa rằng “ác” không phải là mục tiêu “loại trừ”. Thiện ác ở cuộc sống nhân gian là một quá trình chuyển động và chuyển hóa, có chu trình lên xuống, và cái tạm gọi là “sự đối lập” ấy được vận hành trên cơ sở nhận thức tương quan, tương duyên, cái này làm nhân quả cho cái kia và ngược lại. Giới tham gia vào quá trình hoàn thiện đạo đức với tư cách là một - trong - những - phương tiện (tích cực) mà không đảm nhận vai trò phân loại thiện ác.
Vì không có đối lập nên không có đối tượng “lên án” hay “ca ngợi”, từ đó đi đến một thái độ triết học siêu việt thiện ác (thiện ác khác với thiện và ác). Đã không có đối lập thì kêu gọi sự “gia nhập”, “dung hòa” chỉ là khởi vọng, chính vì thế Phật học không có khái niệm “cứu rỗi”. Tư tưởng “cứu rỗi” cho rằng “chủ thể” (Con Người) phải chịu sự quy định và chỉ có thể vươn lên, thoát ra bằng một “chủ thể” khác (linh hồn vũ trụ, Thượng đế…). Từ một xã hội được che đậy giả tạm bằng quy định đến một thế giới được bao biện bằng sự cứu rỗi, đã đang và sẽ càng làm cho tư duy phân loại thúc ép con người. Cái đối lập thường bị tẩy chay và đưa vào “trục ác”, điều này làm cho thế giới con người phân hóa và trở nên mất cân bằng nhiều hơn.
Ở phạm vi hợp lý nhất do thói quen và kinh nghiệm tạo nên, cái thiện và cái ác trở thành một tập tính tích tụ và có những lý thuyết rành mạch bàn luận thế nào là “tính bản ác” và thế nào là “tính bản thiện”. Từ những tranh luận không dứt về thiện và ác, dẫn tới sự phân hóa, hình thành quan niệm về “tính phi thiện phi ác”.
Như vậy chính “ý thức hệ” về đạo đức đã trở thành chủ điểm phân lập thế giới, và từ đây, các tiêu chuẩn, định mức khác nhau về thiện ác hình thành. Tùy vào các xứ sở khác nhau mà điều này được cho phép điều kia không được cho phép. Và cũng chính từ những điều kiện hóa này dẫn con người vào thế giới “không phân định” bằng mâu thuẫn tất yếu của thiện ác mà bằng sức mạnh của sự “cho phép”, của “định chế”, “mệnh lệnh”...
Vì muốn biết về “căn nguyên của vũ trụ, muôn loài”, nên sự hoài nghi tích cực của con người ngày càng lớn trước vấn đề thiện ác. Cuộc sống có hai hình thức phổ biến đó là “đi lên” và “đi xuống”. Sự “đi lên” hay “đi xuống” ấy không hề là biểu hiện của một cuộc “trốn chạy” hay sự sắp đặt cõi sống mà là hệ quả có ý thức xuất phát từ hành nghiệp của bản thân.
Vấn đề hành vi có ý thức trong Phật giáo được diễn tả bằng khái niệm “nghiệp”. Nghiệp tạo tác và nghiệp dẫn đường cho con người đi lên hay đi xuống. Trần Nhân Tông cho rằng chỉ khi “muôn nghiệp lặng” thì mới “an nhàn thể tính”.
Nghiệp cũng là vấn đề chủ điểm khi Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung: “Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt thì làm sao tránh được tội báo?”.
Thượng sĩ liền giảng giải rằng:
“Giả thử có một người đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, người kia không biết hoặc còn ném vật gì vào người vua, người ấy có sợ chăng? Ông vua có giận giữ chăng? Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy”.
Nói rồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:
Mọi pháp đều biến diệt,
Tâm ngờ tội liền sinh.
Xưa nay không một vật,
Mầm mống hỏi đâu thành.
Ngày ngày khi đối cảnh,
Cảnh cảnh từ tâm ra.
Cảnh tâm không có thật,
Chốn chốn Ba-la-mật” (5).
Hành động không tác ý, không phương hại sẽ không đưa đến “tội báo”, cũng như người đứng quay lưng mà không biết nhà vua đi qua, nên người ấy “không sợ” và nhà vua cũng không thể “giận dữ” một cách không suy xét.
Nếu bỏ mất hành vi có tác ý thì thường phân biệt đúng sai bằng các quy chuẩn thiện ác và càng làm cho thế giới trở thành “điên đảo tưởng”. Chẳng hạn, tôi tưởng rằng Thượng đế chỉ sinh ra cái thiện thôi, còn cái ác do “quỷ dữ” sinh ra, cho nên vì tin theo Thượng đế nên tôi cần phải loại trừ “cái ác” cũng như “quỷ dữ”. Đây từng là nguyên nhân sâu xa của sự phân biệt từ “đẳng cấp”, “địa vị” đến những quan niệm xã hội về thiện ác, thậm chí trở thành chủ điểm của những cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới.
Sự nhầm lẫn đáng tiếc đó đã thủ tiêu sự “tự do”, “sáng tạo” cũng như vai trò hình thành cộng đồng xã hội của các tầng lớp có truyền thống phong tục, tín ngưỡng khác nhau. Thế giới có thể “trật tự” hơn trong quy định hành vi nhưng lại phi lý và mâu thuẫn nhiều hơn trong thái độ đầy ảo tưởng về định tính thiện ác. Từ đó dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm, hoặc cho rằng bệnh tật, chiến tranh, thiên tai là do ý của “Thượng đế”, hoặc cho rằng đó là do tự nhiên nó vậy, không thể chuyển đổi được.
Trần Nhân Tông từng đề cập đến khái niệm “cung ma”, “cõi Phật” (6) như một nỗ lực nhận biết của người tu hành. Với cái nhìn nhị nguyên, “cung ma”, “cõi Phật” là hai thế giới khác biệt có sự đối lập về thiện và ác, trong sạch và ô nhiễm. Nhưng cũng chính Trần Nhân Tông đã xóa bỏ khoảng cách của cái nhìn sai lầm này, vì nó chẳng phải hai cũng chẳng phải một, nó là “như thị” (cả về tướng và tánh). Điều này đã được ông khẳng định: “Chứng thực tướng ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc(7).
Vậy tại sao phải chia ra “cung ma”, “cõi Phật”? Vì những khái niệm trên chỉ có ý nghĩa trong thế giới phân biệt và đối đãi của con người.
“Quản”, “cấm” là những khái niệm chức năng, giữ vai trò nhằm cân bằng mâu thuẫn trong thế giới nhị nguyên thiện - ác. Giới cũng thường được hiểu là “giới cấm”, tuy nhiên nó chỉ là một trong những phương tiện, người chưa qua sông thì nên dùng giới làm mảng, nhưng người đã đến bến bến rồi thì đâu cần phải vác thuyền chạy bộ. Trong những cố gắng và nỗ lực, khái niệm “quản”, “cấm” đã phần nào mang đến cho địa vị phàm phu những giá trị đạo đức nhất định. Ở một nền văn hóa tổng hợp, quan niệm “tính bản ác”, “tính bản thiện” đã trở thành lề lối suy nghĩ, thì những hành vi đạo đức trong xã hội cũng được ràng buộc bởi những chuẩn quy định cụ thể.
Trong sạch - ô nhiễm
Bằng tư duy phân lập, nhiều người thường nghĩ, trần gian là ô nhiễm, chất chứa nhiều xấu xa còn Niết bàn, Tây phương Cực lạc là hoàn toàn thanh tịnh. Tuy nhiên, Niết bàn, Tây Phương Cực lạc không phải là “lòng tốt”, sự “trong sạch”, sự “cứu rỗi” và càng không phải là sự “toàn thiện”. Vì Niết bàn, Tây phương Cực lạc là cảnh giới không cần đến những khái niệm “đối đãi”, “phân biệt” như vậy. Bởi thế giới nào có sự “toàn thiện” thì ở đó có sự không toàn thiện. Và bởi không ai thừa suy nghĩ đến mức đặt vấn đề “toàn thiện” trong một thế giới mà không có sự “không toàn thiện”. Vậy thì vấn đề “cứu rỗi”, “lòng tốt”, “trong sạch” không cần phải đặt ra trong cảnh giới Niết bàn, cũng như cảnh giới của người tu chứng.
Trần Nhân Tông xác định rất rõ: “Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm(8). Quả vị “giới tâm trụ” (không cần phải cố gắng, nỗ lực vì điều gì cả). Quả vị “tín tâm trụ” (không bị chi phối bởi tác động bên ngoài và tập khí bên trong). “Pháp vân địa” là quả vị “bao trùm tất cả” vì vậy động cơ chấp vào, dựa vào một điều gì đó là sai lầm, bởi ngay cả khi cắt bỏ được “sắc, thọ, tưởng, hành, thức” thì cũng chỉ là đạt trạng thái “vô sở hữu xứ”, hoặc “phi tưởng phi phi tưởng xứ” chứ chưa phải là giải thoát thật sự. Chỉ khi “cảnh tâm không có thật” thì chốn chốn mới trở thành “Ba-la-mật” như Tuệ Trung đã phát biểu.
Điều đáng nói, sự “hỏi-đáp” trên đã giải tỏa được những khúc mắc do chính Trần Nhân Tông đặt ra, hoặc do sức ép từ các cáo trạng chỉ trích Tăng sĩ của các nhà Nho, hoặc vì những đòi hỏi thay đổi theo chiều hướng tích cực của xã hội. Vượt qua nhận thức phổ thông, Trần Nhân Tông đã thừa nhận: “Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt”, và ông hiểu rằng rất khó để tư tưởng này có thể làm cho người đời hiểu được “Phô người học đạo, Vô số nhiều thay, Trúc hóa nên rồng, Một hai là họa(9). Đó cũng là điều mà vua Trần Thái Tông khi trước đã nói: “Ngày nay, những người không dùng phương tiện đó qua sông mà tới được bờ bên kia thì thực là hiếm vậy” (Bàn về thụ giới).
Những người đứng đầu đất nước nhận thức về giới như vậy thì sao có thể tùy tiện phân định thế giới thiện ác trong cái thế “loại bỏ”, “đối đầu”. Nhận thức tương tự này luôn làm cho nhiều vị vua Phật tử trở nên nổi tiếng về lòng khoan dung, nhân thứ ngay cả với “kẻ thù” của mình. Khuyến hóa người đời tiếp nhận năm học giới, mười điều lành chính là muốn cho lòng từ ấy trong xã hội phát triển, vì Trần Nhân Tông hiểu rằng con người đều sẵn lòng từ, lòng trong sạch:
Tịnh độ là lòng trong sạch, Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương.
Di đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc(10).
Đó cũng chính là điều ông nhấn mạnh: “Biết chân như, tin Bát-nhã, chớ còn tìm Phật tổ Tây Đông(11). Tức mọi sự hấp dẫn của “bờ bên kia” đều được khám phá ở chính “bờ bên này”.
Nhận thức đúng về giới thì sẽ điều chỉnh hướng đi của xã hội vào những mục đích lâu dài hơn. Bảo Sát từng bạch hỏi ngài: “Tôn Đức tuổi đã cao mà xông pha sương tuyết như vậy, lỡ ra có chuyện gì thì mạng mạch Phật pháp sẽ như thế nào?” Ngài đáp: “Thời giờ của ta đã đến, ta muốn tạo cái kế lâu dài vậy (12). Đây cũng chính là lý do Trần Nhân Tông dành thời gian quý báu còn lại của mình để chu du khắp nơi khuyến hóa dân chúng gìn giữ mười điều lành.
“Giới luật (sìla, vinaya) có nghĩa là hộ trì, bảo vệ, là những điều cần phải học (sikkhà pada - học xứ - như học xứ không sát sinh) bằng tự nguyện. Giới không hề có ý nghĩa bị bắt buộc phải thọ, phải giữ như luật pháp hay nội quy. Ngoài ý nghĩa xã hội, giới chú trọng đến mặt thánh đạo nên còn gọi là luật nghi (samvara)” (13).
Phật giáo có năm học giới nhằm hoàn thiện nhân cách của người Phật tử như không giết người, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nhưng để tiến xa hơn nữa trong nỗ lực tu hành, Phật giáo còn có mười điều lành. Trần Nhân Tông sau khi xuất gia thường chống gậy đi khắp nơi thôn xóm để khuyên bảo dân chúng giữ gìn mười điều lành. Vì nếu có thể giữ gìn được mười điều lành thì sẽ trở nên quả vị Hiền thánh. Đây là mục tiêu Thánh hóa cộng đồng của ông, nhằm nâng cao văn hóa của người dân Đại Việt.
“Năm giới” là nền tảng căn bản để làm người, còn “mười lành” là điều kiện để chuyển từ địa vị phàm phu lên địa vị Hiền thánh. Mười lành được quy định ở ba cấp độ (ba nghiệp) rất rõ ràng đó là thân (việc làm), khẩu (lời nói), ý (ý nghĩ).
Khi nói đến “mười lành”, lẽ thường người ta xếp nó vào phạm vi của cái thiện. Nhưng khi nói đến ba sự vận hành lớn của con người là “ý nghĩ, lời nói và hành động” thì nó bao quát cả thiện và ác. Như vậy, tiến lên quả vị Hiền thánh hay sa đọa đều nằm trong phạm trù của ba sự vận hành này và nó liên hệ mật thiết với nguyên lý nhân quả.
Bất cứ vấn đề gì mà cuộc sống đặt ra, dù được cô đọng vào bất cứ tiêu chí nào thì cũng phải được xem xét ở ba cấp độ “ý nghĩ, lời nói và hành động”. Chính ba cấp độ này tạo ra sự phong phú vô cùng cho thế giới thiện ác. Nó vừa khép kín nhưng cũng đồng thời mở ra. Nếu giới chỉ là “quy định bắt buộc”, “cấm đoán” đối với mọi người thì nó chỉ là một mớ những thành kiến được số đông xã hội hợp thức hóa, điều kiện hóa.
Vì hiểu lầm việc giữ giới hay không giữ giới là hành vi thiện ác nên giới mới bị rơi vào phạm vi đạo đức thông thường. Và cũng vì năm giới, mười lành thường được hiểu “giới cấm” nên đã giới hạn đối tượng tiếp nhận, về lâu dài sẽ dần dần tách khỏi đời sống xã hội. Học giới dành cho tất cả mọi người, dù là Phật tử hay không phải Phật tử đều có cơ hội như nhau khi tiếp cận nhằm hoàn thiện bản thân.
Học giới giống như lửa của ngọn đèn dù có sang chiết lửa cho hàng nghìn ngọn đèn khác thì cũng không làm giảm đi tính sáng của mình, đồng thời còn làm cho mọi ngọn đèn đều được sáng. Vì thế thụ nhận giới là sự tự nguyện, là niềm hạnh phúc tinh thần. Mỗi người trong xã hội chỉ cần điều chỉnh mình theo học giới thì xã hội sẽ tốt lên mà không cần phải triệt tiêu cái ác. Còn khi hiểu giới là sự cấm đoán thì chỉ có ý nghĩa với những người Phật tử đã quy y, còn người không phải Phật tử thì điều đó tuy hay nhưng họ cũng rất có thể sẽ “kính nhi viễn chi”. Sự “cấm đoán” thường tạo nên sợ hãi, nếu vì sợ hãi mà giữ giới thì chỉ khắc sâu sự đối phó, xa dần với hạnh phúc, gần gũi với khổ đau. Sợ hãi mà giữ giới chính là hành động “tự tìm nguy”. Chắc chắn đây không phải là điều vua Trần Nhân Tông mong muốn.
Vì thế, Tuệ Trung đã hiểu được tâm ý phân biệt của số đông trước vấn đề giữ giới, nên mới trả lời câu hỏi của Trần Nhân Tông “Công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”:
Trì giới và nhẫn nhục,
Chuốc tội chẳng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới nhẫn nhục.
Như khi người leo cây,
Đang yên tự tìm nguy.
Không trèo lên cây nữa,
Trăng gió làm gì được (14).
Giữ giới hay không giữ giới không liên quan đến việc đánh giá nhân cách con người là thiện hay ác, tội hay phúc. Hôm nay giữ giới không xao lãng là “trong sạch”, vậy ngày mai không còn phải giữ giới thì cái tính trong sạch nó mất hẳn hay sao? Hôm nay không giữ giới hay phá giới là ác, vậy ngày mai giữ giới thì cái tính ác không còn nữa hay sao?
Phật giáo quan niệm thiện ác không nằm trong quá trình đấu tranh loại bỏ mà nó thuộc phạm trù duyên sinh, hỗ tương nhân quả, từ đó hình thành ra các giá trị mang các địa vị, quả vị nơi các cõi giới khác nhau. Nếu học giới bị quy định bởi phạm trù đạo đức chức năng (cấm) thì nó sẽ thay đổi khi điều kiện, hoàn cảnh xã hội thay đổi. Nhưng nếu học giới được nâng lên ở tầm nhận thức giải thoát thì không thể triệt tiêu bất cứ mâu thuẫn, đối lập nào cho dù là thiện hay ác. Bởi không có mâu thuẫn thiện ác thì không còn chức năng giáo dục, khuyến hóa.
Sự nhầm lẫn giữa giữ giới là thiện không giữ giới là ác đã dẫn đến sự nhầm lẫn khi triệt tiêu mâu thuẫn, làm cho các biểu hiện xã hội trở thành các cực đối lập. Nho gia nhìn vào Phật gia để công kích việc ăn thịt uống rượu. Như vậy về căn bản, các ý thức hệ đã liên tục nhầm lẫn giữa những phạm trù chức năng “cho phép”, “không cho phép” mà quy định về những chuẩn thiện ác trong xã hội.
Trần Nhân Tông từng phải cảnh báo: “Câu hữu, câu vô. Quay bên phải, ngoái bên trái. Thuyết lý ầm ĩ. Ồn ào tranh cãi(15).
Thiện ác là một tác động kép vào quá trình phát triển của xã hội và là mối quan hệ tương thuộc. Sự cho phép hay không cho phép, có thể có những nội dung gần với thiện ác, nhưng không phản ánh hết nhận thức về vấn đề thiện ác. Bởi có những sự “cho phép” của pháp luật đã đi ngược lại với điều “thiện”, và có những điều pháp luật cho là “ác” thì lại là niềm tin của nhân dân. Như vậy chính câu trả lời của Tuệ Trung đã tác động vào nhận thức của Trần Nhân Tông như một phản biện tích cực. Tuy Trần Nhân Tông biết rằng “Mọi pháp đều biến diệt, Tâm ngờ tội liền sinh” như Tuệ Trung đã nói nhưng suy nghĩ phổ biến đã cho rằng giữ giới là có phúc, không giữ giới là có tội, vậy “tội phúc đã rõ ràng thì làm thế nào?”. Tuệ Trung bèn chỉ bảo:
Ăn thịt và ăn cỏ,
Tùy theo từng loại đó.
Xuân về cây cỏ sinh,
Họa phúc nào đâu có (16).
Do đó đừng nhầm lẫn việc uống rượu ăn thịt là sẽ gặp tội báo và không uống rượu ăn thịt thì sẽ thành Thánh. Chính “tâm ngờ” mới là đầu mối động cơ của việc làm thiện ác, và chính từ cái “tâm ngờ” ấy mà sinh ra việc có tội phúc.
Tuệ Trung nhắn nhủ Trần Nhân Tông “đừng bảo cho người không đáng bảo”, không phải người “không đáng bảo” ấy là xấu, ác mà họ là những người “chưa hiểu” về giới hay chấp giới. Kẻ chưa hiểu về giới thì sẽ phá giới, kẻ chấp giới thì sẽ sinh tâm phỉ báng những điều tốt đẹp khác ngoài giới. Rõ ràng vấn đề nâng cấp nhận thức được Tuệ Trung và Trần Nhân Tông hết sức quan tâm, nhưng đó không phải vấn đề đơn giản trước quan niệm của số đông.
Giới là phương tiện chuyển hóa từ một quả vị thấp hơn tiến tới một quả vị cao hơn. Nên cần phải nhận thức đúng về giới để giải thoát ngay trong cuộc đời trần tục này: “Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc(17).
Điều gì đã khiến cho không ít triều đại dưới thời Lý - Trần người dân đi ngủ không cần phải đóng cửa. Đó chính là tác dụng tích cực của việc thực hành giới. Nếu chỉ suy nghĩ cô lập giới là sự “cho phép” hay “không cho phép” thì sẽ nảy sinh vấn đề “muốn” hay “không muốn”. Giáo dục không nên rơi vào cái bẫy của sự “cho phép”. Giáo dục nên hướng vào tư duy, nhận thức, bởi đó là vần đề cốt lõi để người ta có thể đối mặt với điều kiện, hoàn cảnh thực tế và giải quyết nó một cách tốt nhất theo chiều hướng ích mình, lợi người. Rõ ràng người hiền không phải người không (bất biến) tham mà người hiền chính là người có điều kiện để tham nhưng không tham.
Nhận thức đúng về giới để tự do chuyển hóa khổ đau chứ không phải những quy định đạo đức bắt buộc mỗi cá nhân (khác biệt về truyền thống) phải trải qua. Giáo dục là nhằm cho nhận thức được mở rộng ra chứ không phải ngắm vào quy định chức năng “được phép” hay “không được phép” rồi khép kín tất cả các trật tự hành vi lại. Nhận thức là quy trình tự điều chỉnh và mang ý nghĩa chuyển hóa, diễn ra trong một quá trình từ “phàm” sang “thánh”. Khi đạo đức biến thành quy định thì tạo ra sự phân lập, phán xét, nuôi dưỡng thành kiến, thậm chí ý thức hệ đối đầu. Triết học Phật giáo không có “ý thức hệ đối đầu”, ở đó chỉ có một quá trình chuyển hóa, tha hóa giữa các quả vị trên căn bản xuất phát từ động cơ có tác ý (hành nghiệp).
Như vậy đi vào vấn đề hành nghiệp của con người (thiện ác) là đi vào ba phạm trù lớn trong diễn biến sống đó là “ý nghĩ, lời nói và hành động”. Nhân sinh quan Phật giáo trở nên phong phú vì nó đã ngắm trúng đích ba vấn đề lớn này. Vậy thì cả thiện và ác đều phải đi qua, không có một sự sắp xếp đạo đức nào trong quá trình này. Vì thiện ác không phải là phạm trù bất biến, không phải hai thế giới đối lập. Cuộc sống có sự dao động rất lớn, mọi người đều có nguy cơ “trở nên” thế này và thế kia chỉ trong một “ý nghĩ, lời nói và hành động”.
Giới nằm trong quá trình chuyển hóa, không dành cố định cho một “hạng”, “loại” người nào, nên giới là bình đẳng, không bị chi phối bởi không gian, thời gian. Nhưng nếu giới trở thành “chức năng”, phân lập “thiện ác” thì sẽ trở nên lỗi thời và phi lý khi các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội thay đổi. Từ lâu, giới ở Việt Nam đã khiến cho người ta “sợ”, “ngại” mỗi khi nhắc đến việc phải giữ hay không. Nhưng nếu giới được hiểu là “học giới”, một quá trình giáo dục đào tạo nhằm chuyển hóa thân tâm thì ảnh hưởng, tác dụng xã hội sẽ rất lớn. Sự trao đổi giữa Tuệ Trung và Trần Nhân Tông cho thấy, điều cốt yếu vẫn là tác động vào nhận thức của đối tượng “đáng bảo” hay “không đáng bảo”. Có thể nói, vướng mắc ấy vẫn còn nguyên cho tới hôm nay.
Một khi “đạo đức” trở thành những “mệnh lệnh” thì nó sẽ gắn chặt với pháp luật, có thể làm suy giảm đáng kể sự sáng tạo và chuyển hóa của con người. Người cổ súy đạo đức lại làm thay công việc của người ban hành luật, tức cho phép làm cái này không được làm cái kia. Đây là nguyên nhân làm giảm tính đặc thù cá nhân cũng như sự khai phóng tư tưởng trong xã hội, và cũng là đầu mối của việc “đang yên tự tìm nguy”.
Trói buộc - giải thoát
Giới không phải sự trói buộc. Trong bài Sơn phòng mạn hứng, Trần Nhân Tông viết: “Ai trói buộc mà phải tìm phương giải thoát. Phẩm cách chẳng phàm tục cần gì tìm thần tiên(18).
Như vậy ông đã nhận thức rõ được sự trói buộc, vì sự trói buộc này mà sinh ra khía niệm “phàm tục”, “thần tiên”. Triệt tiêu mâu thuẫn chính là triệt tiêu sự hài hòa, vì mâu thuẫn được đặt ra trong thế giới tương đối, không có nó thì thế giới sẽ trở nên “đơn cực”. Cho nên khi không còn trói buộc, không còn nặng đầu với “phàm tục”, “thần tiên” thì thoát ra khỏi các khái niệm chức năng “để” và “triệt”.
Người không còn phân biệt mê ngộ, phàm thánh thì sẽ đạt được “tính sáng soi”. Nhưng vì sao các phạm trù “chức năng” của đạo đức cho phép hiểu cái thiện cần phải được khuyến khích và cái ác cần phải ngăn ngừa. Đây cũng là một vấn đề thuộc phạm vi “giải quyết”. Nếu làm một cái xấu thì có thể dẫn đến làm nhiều cái xấu, và nếu làm được một việc lành thì có thể làm nhiều việc lành. Điều này được quan sát dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tu tập.
Nhưng giải quyết vấn đề “tính” mang những ý nghĩa triết luận thì thấy rằng tư duy “thiện - ác” không nên lúc nào cũng có thể nhận thức bằng kinh nghiệm, tức coi việc gần xấu thì xấu, gần ác thì ác. Đây là một trong những yếu tố phổ biến trong quan niệm Nho giáo nên họ rất quan tâm đến yếu tố “môi trường”. Điều này dựa phần lớn vào cái thấy không trọn vẹn của kinh nghiệm. Một khi cái tổng thể đã bị nhận thức bằng kinh nghiệm chi phối, thì cái cá biệt, cái vốn lưu giữ nhiều sự phong phú và sáng tạo sẽ bị bất tín. Đây cũng là điều dẫn đến suy luận có vẻ như rất logic, nếu bất kể những ai đã nằm trong vùng, phạm vi của cái xấu thì sẽ bị “xấu hóa” do đó cần phải cô lập, bài trừ.
Trần Nhân Tông viết: “Nếu Hằng Nga biết được vẻ đẹp thanh nhã của hoa mai, Thì có ưa gì cây quế và cung thềm lạnh lẽo(19). Cái phổ biến trong cảnh giới của Hằng Nga không phải cái phổ biến, cái đẹp trong cảnh giới khác. Đó là cõi riêng trong cách cảm của người. “Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân. Tỉnh dậy không thể đem tặng anh được(20). Đó cũng là điều mà có người đã hỏi Trần Nhân Tông: “Đã là thanh tịnh bản nhiên sao bỗng chốc sinh ra núi sông đất lớn?”. Trần Nhân Tông trả lời: “Ai biết tránh xa khói sóng sẽ có riêng điều bàn bạc(21).
Không chỉ có chuyện thiện ác mà ngay đến cả chuyện yêu thương, chuyện ăn ngủ, chuyện sống thanh bần, đạm bạc, không đấu tranh… cũng được gom hết vào phạm trù của đạo đức. Chính vì điều này mà mọi sự “lệch chuẩn” đều có thể bị suy diễn là mất đạo đức. Trả lời cho vấn đề yêu thương, Trần Nhân Tông viết: “Càn khôn kiêm ái vô Nam Bắc(22). Có nghĩa rằng cái yêu thương thì không có vấn đề cho phép hay không, cũng như chuyện ăn ngủ “sống giữa phàm trần hãy tùy duyên mà vui với đạo, đói thì ăn, mệt thì ngủ(23), lên án nó là “lệch chuẩn” chẳng khác nào lên án sự tự tại. Tuy nhiên, những gì diễn ra trong đời sống cho thấy nhiều biểu hiện phong phú đều dần dần bị quy vào phạm trù chức năng “cho phép” của ý thức hệ nên dù có diễn giải như thế nào thì cũng vẫn nằm trong thành kiến “thân tộc”, “huyết tộc”, “tổ chức”, “tôn giáo”… Đó chính là giới hạn từ chính những sai lầm có tính chất điều kiện hóa.
Sự vật thường được nhân thức bằng khái niệm, nên mới gây nên những tranh luận không dứt. Nhưng ít ai trong xã hội có thể hoàn toàn dựa trên các “quan điểm”, “khái niệm” để bước chân ra khỏi cái ác, cái xấu trên cả ba bình diện “ý nghĩ, lời nói, việc làm”. Ở ý nghĩa này, không phải bất cứ hành vi “lệch chuẩn” nào cũng có thể được xem là xấu ác. Hành vi cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo là hành vi trượng nghĩa thời phong kiến, vì kẻ giàu thì thường được hiểu là không mấy khi làm thiện. Tuy nhiên, dưới thời luật pháp nghiêm minh, mọi hành vi cướp của dưới bất kỳ động cơ nào cũng phải bị pháp luật can thiệp.
Nếu không hiểu được “động cơ” từ trong ý nghĩ, lời nói, hành động thì sẽ không bao giờ truy tìm được những biểu hiện tương đối của thiện ác, chẳng “khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm, theo tranh vẽ đi tìm ngựa(24). Vì vậy, trả lời câu hỏi “giết người không chớp mắt là thế nào?”, Trần Nhân Tông không nói đó là “ác độc”, “phi đạo đức” mà ông nói “toàn thân là mật(25). Trần Nhân Tông không cho người ta được phép thỏa mãn khi nhận được câu trả lời vì thỏa mãn thì sẽ ngừng nhận thức, ngừng tư duy, mặc dù có lúc ông cũng phát biểu “mọi suy nghĩ đều cho qua đi hết(26).
Trở lại với câu hỏi “Người đời ưa uống rượu, ăn thịt thì làm sao tránh khỏi tội báo?”. Ưa là một thói quen đã trở thành tập tính. Tuy nhiên những tính cách phổ biến đó là một nhu cầu mang giá trị “bù đắp” (nơi nào tròn thì khuyết, nơi đâu rỗng thì đầy), nghĩa là khi có điều kiện, người ta sẽ ăn thịt, uống rượu. Sự đắm nhiễm vào rượu thịt và những hệ quả tiêu cực mà nó đem lại mới là điều đáng bàn. Cuộc sống bằng nhiều hình thức khác nhau đã đặt ra vấn đề nhu cầu, mà nhu cầu thì không xa với hạnh phúc và khổ đau. Đặt phạm vi ưa ăn thịt uống rượu vào tội báo là khiên cưỡng, vì điều này có tính cách cá nhân, chủ quan (ưa và không ưa).
Tại sao xã hội càng hoàn thiện hơn về mặt pháp lý, nhưng lại không tương ứng với việc giảm tội ác? Vì cái ác trở thành đối cực của cái thiện, trong khi thực tế cái ác không phải đối tượng mà là chủ thể nằm trong phạm trù đạo đức. Đối tượng của cái ác là cái thiện. Đối tượng của cái thiện là cái ác. Vậy thì thiện ác vừa là chủ thể vừa là đối tượng của nhau. Chính vì vậy nhận thức quá trình diễn biến của thiện ác không phải vấn đề bên ngoài xã hội mà là nhận thức bên trong nơi mỗi con người. Điều chỉnh được cái bên trong này thì cái bên ngoài nó yên. Trần Nhân Tông có lúc đã hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ về “cái gốc của tôn chỉ Thiền”, và ông đã được trả lời rằng: “Hãy quay nhìn lại công việc của mình chứ không tìm đâu khác được(27). Vua Trần Thái Tông cũng từng có chí vào núi tu hành để tìm Phật, nhưng ông đã được Quốc sư Phù Vân khuyên rằng: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật. Nay nếu bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không cần khổ công tìm kiếm bên ngoài(28).
Chuyển cái tiêu cực thành tích cực là phạm vi của giới. Giới theo suy luận thông thường là có công năng ngăn ngừa, phòng hộ. Nhưng sai lầm khi cho rằng giữ giới nhằm tiêu diệt cái ác. Giới là quá trình “chuyển hóa” nghiệp. Hợp thức hóa ba phạm trù ý nghĩ, lời nói, hành động thành phạm trù của nghiệp (nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý) đã khiến cho việc giữ giới trở thành một quá trình hoàn thiện theo cấp độ năng tiến. Và nó chỉ đưa ra những “khả năng” (để tự do chọn lựa) hoặc là tiến bước hoặc là lùi bước. Hãy cẩn thận khi chọn lựa những bước đi này. Còn cả hai vấn đề thiện ác đều xuất phát từ dục (sự ham muốn dù là thô hay vi tế). Sự ham muốn và động cơ của nó nếu đi ra ngoài các phạm vi ích mình, lợi người và ích lợi cho cả hai sẽ quyết định thang bậc giá trị của sự ham muốn ấy.
Vì các giá trị được nhìn nhận trên những mức độ nêu trên nên sự khuyến hóa mới có tác dụng. Vua Trần Thánh Tông từng viết: “Thấy quái không thấy quái, Quái kia liền tự hoại(29). Khi vượt ra khỏi phạm vi thiện ác, quái và không quái thì vấn đề không còn phải đặt ra một cách dư thừa nữa. Đức Phật không thể thuyết pháp về thiện ác ở những cõi giới không còn thiện ác và Đức Phật không cách nào khuyên nổi những vị trời ở cõi phi phi tưởng về sự hấp dẫn của quả vị Niết bàn. Đó chính là lý do mà Tuệ Trung nhắc nhở vua Trần Nhân Tông “Chớ bảo cho hạng người không đáng bảo”.
Vậy thì chức năng khuyến hóa chỉ được đặt ra trong phạm trù của đối đãi, tức có phân biệt và chấp nhận sự tồn tại song hành của thiện ác. Chỉ có thể nói chuyện thiện ác trong thế giới có thiện ác.
Quá trình “mất tác dụng” (nói như Tuệ Trung là việc giữ giới “chiêu tội bất chiêu phúc”) chỉ xảy ra khi người ta đạt đến trình độ “ra ngoài” phạm vi của phân biệt. Và cũng chính vì đã “ra ngoài” nên nó không cần phải “giải quyết” bất cứ điều gì cả. Vậy thì muốn không còn tham lam thì phải dùng chính cái không tham lam làm đối kháng, chứ không hoàn toàn đặt hết tin tưởng vào những “công cụ” chống tham lam, vì càng nhiều công cụ để chống tham lam thì càng phải rượt đuổi theo sự biến tướng của các hành vi tham lam. Tham lam xảy ra trong mỗi cá nhân là cả một quá trình, khi nó đã là quá trình thì nó có nhiều điều kiện, phương tiện (giới, luật pháp, đạo đức…) để điều chỉnh. Tất cả mọi thuận lợi của điều kiện và hoàn cảnh thúc đẩy quá trình diễn ra nhanh hay chậm. Chính vì vậy sự khuyến hóa cũng nên tuân thủ theo những điều kiện và hoàn cảnh nhất định để tác dụng vào điều chỉnh từ mức độ nhỏ đến mức độ lớn.
Từ nguyên nhân đến kết quả, dù diễn ra nhanh hay chậm cũng là một quá trình. Vì vậy cả thiện và ác đều đi theo quá trình của ý nghĩ, lời nói và hành động. Sự ưa muốn của thiện và ác có một lực hấp dẫn từ những hiện thực xã hội, tức chịu sự tác động phần nào của các tập tính xã hội. Nên cần phải dùng “tập tính” để hóa giải “tập tính”.
Có thể đưa ra bốn tình huống như sau:
Thấy quái không làm quái.
Thấy quái làm quái.
Không thấy quái làm quái.
Không thấy quái không làm quái.
Như vậy đặt vấn đề “thấy quái không thấy quái” là đặt trúng vấn đề cần bàn chung quanh những thắc mắc của Trần Nhân Tông. Tức phải thấy cả hai mặt “đối lập” này. Khi thấy được cả hai thì không cần phải “triệt tiêu” thì nó cũng tự biến mất, tức ra ngoài việc “muốn” và “không muốn”.
Khi chủ thể là một “quá trình” hay nằm trong một “quá trình” thì chủ thể không thể tự triệt tiêu mình vì thiện ác (thay đổi) đều xuất phát từ bên trong con người. Những tác động chuyển hóa bằng ngăn ngừa, khuyến khích là những tác động tạm thời. Chính vì vậy không thể hiểu sai rằng ngăn ngừa, khuyến hóa là một quá trình triệt tiêu cái ác. Nói cách khác, đó là một quá trình chuyển hóa cái tiêu cực sang cái tích cực. “Tứ chánh cần” của Phật giáo đảm nhận rất rõ chức năng này: 1. Những điều thiện chưa sinh thì làm cho phát sinh; 2. Những điều thiện đã phát sinh thì làm cho phát sinh hơn nữa; 3. Những điều ác chưa sinh thì đừng cho nó phát sinh; 4. Những điều ác đã phát sinh rồi thì đừng cho nó phát sinh thêm nữa.
Thiện ác là một quá trình. Quá trình này không phản ánh “chân lý” vì nếu xét về mâu thuẫn thì không có nghĩa rằng cái ác là phi lý còn cái thiện là hợp lý và ngược lại. Như vậy thiện ác khi nằm trong phạm trù đạo đức thì có thể tạm thời bàn chuyện “đúng-sai”. Song mọi người đều có nguy cơ “rơi vào” một cực nào đó, đối lập, hợp tác, loại trừ lẫn nhau.
Mọi trạng thái đều xuất phát từ tâm, nên thiện ác không chỉ diễn ra trong phạm vi của biến động xã hội mà chính nó, từ bên trong đã nảy sinh trong quá trình vận hành của ý nghĩ, lời nói và hành động, đây mới là động cơ quyết định đến những biến động xã hội bằng quá trình tích tập thiện ác.
Thiện ác xuất hiện từ bên trong nhiều khi đối lập với chính những quy tắc đạo đức bên ngoài. Chẳng hạn giết “người” là ác (so với tâm từ bên trong), nhưng giết “giặc” thì không ác (so với các quy định đạo đức bên ngoài). Có nghĩa rằng chính trong phạm vi đạo đức cũng đã bị các điều kiện chủ quan “cho phép” hay “không cho phép” can thiệp. Vậy có phải cứ gia tăng sự “cho phép” và “không cho phép” thì sẽ giải quyết được vấn đề đạo đức không? Không thể. Vì sự cho phép hay không ở quốc độ này khác với sự cho phép hay không ở quốc độ khác. Nơi này đặt vấn đề đạo đức còn nơi kia thì không. Đây chính là sự khác biệt căn bản nơi các cõi giới. Vậy để có thể tuyên bố “Hang quỷ ở là lâu đài Di Lặc. Núi Hắc đâu khác cảnh Phổ Hiền(30) thì phải nhận thức được tính “đồng nhất lý” (tính của phàm phu tức Phật tính) của pháp giới. Nếu có thể giải quyết vấn đề thiện ác bằng phân loại, phủ định, triệt tiêu thì chỉ cần xây nhiều nhà tù, đúc nhiều vũ khí, sử dụng nhiều phương tiện áp bức là có thể nhanh chóng làm được không cần đến đạo đức, giới luật.
Như vậy trước vấn đề thiện ác, rất cần đến lòng trắc ẩn, vì lòng trắc ẩn làm cho con người không vô cảm trước thiện ác. Vì thiện ác không phải là quyết định luận, không phải là “thiên định”. Nếu cái ác là một quyết định luận thì sẽ có lực lượng đẩy cái ác lên trở thành lý thuyết, tư tưởng. Nếu phân định rạch ròi “trục ác” thì sẽ biến cái ác trở thành một hệ giá trị riêng có sự cổ súy và lên án. Chính vì điều này mà người ta chỉ biết ghê tởm trước cái ác mà không khởi lên sự trắc ẩn trước cái ác. Và chính vì điều này mà nhà tù càng được xây thêm, vũ khí ngày càng được đúc nhiều, chiến tranh càng được lựa chọn để giải quyết xung đột.
Nhìn nhận sai lầm về cái ác giống như nhìn dây thừng mà tưởng nhầm con rắn. Bởi thế giới thiện ác là thế giới duy tâm biến hiện. Dù có nhìn nó ở hình ảnh, phạm vi nào thì cũng là “khởi tâm vọng tưởng”. Sự nhầm lẫn giữa quá trình sa đọa và quá trình hướng Phật dẫn đến sự nhầm lẫn khi đối lập thiện ác. Vốn dĩ tất cả các hình thái, đối tượng, đặc điểm, thuộc tính của thế giới này đều là những diễn biến của vọng tâm. Có nghĩa rằng chúng ta không thể suy luận đúng trước hàng loạt những dữ liệu đã sai ngay từ ban đầu.
Đức Phật từng khuyến cáo: “Nếu còn dùng vọng tâm để nghe lời thuyết pháp của ta thì lời thuyết pháp cũng là vọng. Nếu cho rằng ngón tay là mặt trăng thì chẳng những không thấy được mặt trăng mà cũng không biết luôn cả ngón tay”.
Vấn đề “đang yên tự tìm nguy” mà Tuệ Trung nhắc nhở Trần Nhân Tông cho thấy rõ quan điểm của ông về một thế giới phân biệt nhị nguyên. Và giới khi không được hiểu là học giới thì nó trở nên khô cứng như một quy định đạo đức thông thường. Sự phân biệt về giữ giới và giải thoát, chính là việc nghĩ tưởng rằng cần phải có sợi dây thì mới có thể cột chặt tâm ý rong ruổi, bất thiện của mình được. Giới không phải là cái công việc luẩn quẩn (tìm nguy) tự thắt nút vào (trói buộc) rồi tự tháo nút thắt ra (tìm giải thoát) như vậy. Trong khi những ràng buộc là điều dễ thay đổi lại bị buộc chặt vào hệ quy chiếu của đạo đức. Con người đang rơi vào rất nhiều những nghịch lý mà lời giải nằm ngay trong chính bản thân họ. Phải chăng thế giới ngày càng được chia nhỏ trong sự phân ly và điều kiện hóa này?
Lời kết
Có thể nói, con người là chủ điểm của mọi khám phá từ đời sống vật chất đến tinh thần. Vì vậy, tìm hiểu tư tưởng của vua Trần Nhân Tông không chỉ khẳng định tính liên tục của dòng chảy lịch sử mà còn đóng góp vào quá trình tìm hiểu tư tưởng văn hoá dân tộc và những giá trị có thể ứng dụng một cách thiết thực trong cuộc sống xã hội hiện tại.
Những câu hỏi trọng tâm về việc “giữ giới trong sạch để làm gì?” và sự khai mở của Tuệ Trung đã cung cấp cho Trần Nhân Tông những nhận thức đầy đủ hơn về giới. Nhận thức ấy là động lực thúc đẩy Trần Nhân Tông phát triển tông chỉ của mình theo đường lối dấn thân nhập thế “cư trần lạc đạo”, bên cạnh việc khuyến hóa không mệt mỏi để dân chúng tin sâu và thực hành mười lành. Không cần những thuyết lý ồn ào, chỉ cần quan sát dân chúng giữ gìn ba nghiệp như thế nào thì biết nền đạo đức xã hội của thời đại ấy.
Sự kiện vua Trần Anh Tông thỉnh Điều Ngự Trần Nhân Tông hồi triều để thọ Bồ tát giới tại gia và vương công, bách quan cùng thọ giới pháp, đặc biệt khi Nho giáo đã có chỗ đứng, cho thấy đó là một sự kiện chính trị xã hội, tôn giáo rất đáng quan tâm, củng cố thêm những luận điểm về việc triều đình đã nhận thức được tầm quan trọng của giới luật Phật giáo (cụ thể Bồ tát giới, mười giới, năm giới của người tại gia), xem đó là nền tảng căn bản để xã hội luôn mở ra và hướng đến sự tốt đẹp.

Thích Thanh Thắng
Chú thích:
(1) Tam Tổ thực lục, Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 2 (Trần Lê Sáng chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, 1997, tr. 785.
(2), Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng, (Nguyễn Huệ Chi chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 81-82.
(3) Lê Quý Đôn toàn tập, tập II Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, 1997, tr. 378.
(4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng, sđd, tr. 545-546, 546, 454, 506, 507, 535, 505, 506.
(12) Thánh đăng lục, Thích Thanh Từ, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1999, tr. 122.
(13) Sự khác nhau giữa giới luật và luật pháp, Tâm Hạnh, Nguyệt san Giác Ngộ số 102, 2004, tr. 53.
(14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21), (22), (23), (24), (25), (26), (27), (28), (29), (30) Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng, sđd, tr. 546, 489, 546, 506, 469, 470, 471, 495, 474, 510, 488, 496, 481, 546, 28, 545, 74.