Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2009

DI DÂN: NÓI CHUYỆN LÁNG GIỀNG GẦN

(TuanVietNam) - An ninh ngày nay chủ yếu là an ninh xã hội và xã hội được định nghĩa là bản sắc. Bản sắc là gì? Barry Buzan nói: là văn hóa.

Trong phần cuối của bài tham luận tại Hội thảo hè 2009, GS Cao Huy Thuần đã dành thời gian để nói kỹ lưỡng về những câu chuyện đang hiện hữu ở các quốc gia trong khu vực.

Ông dẫn lời một chuyên gia về Miến Điện: "Di dân ngày nay được thực hiện trên một quy mô rộng lớn chưa bao giờ thấy ở Đông Nam Á". Và an ninh ngày nay chủ yếu là an ninh xã hội và xã hội được định nghĩa là bản sắc. Bản sắc là gì? Barry Buzan nói: là văn hóa.

Để đảm bảo tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam xin được trích giới thiệu phần cuối của bài tham luận này tới quý vị độc giả.


Di dân: Chiến lược bài bản

Dưới tiêu đề: "Á châu: Quản lý bên kia bờ khủng hoảng", Diễn Đàn Boao đã họp ở Hải Nam trong tháng 4-2009 vớí diễn văn của thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đề nghị các giải pháp để vượt qua khủng hoảng hiện tại. Trong 5 đề nghị "đẩy mạnh hợp tác giữa các nước Á châu", hãy đọc nguyên văn đề nghị thứ ba vì đây là nguyên tắc, đường lối, chính sách, là ánh sáng rọi vào mọi áp dụng cụ thể:

"Đào sâu hợp tác đầu tư và kích thích phát triển kinh tế vùng bằng cách tăng gia đầu tư... Trung Quốc đã quyết định thiết lập "Quỹ hợp tác đầu tư Trung Quốc - ASEAN" trị giá 10 tỷ Mỹ kim để hậu thuẫn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng. Để khuếch trương đầu tư, các quốc gia phải hành động theo tinh thần mở cửa và cho phép doanh nghiệp của các nước khác hoạt động một cách bình đẳng.

Các công ty ở bên trong vùng phải được khuyến khích để hỗ tương đầu tư và gia tăng hợp tác về dịch vụ lao động, và phải tránh không được bắt công nhân nước ngoài hồi cư đông đảo" (14).

Dưới ánh sáng rạng rỡ đó của câu cuối, bây giờ ta đi vào thực tế ở Lào, ở Miến Điện, ở Cămpuchia.

Chuyện ở Lào

Theo thống kê chính thức, 30.000 công nhân Trung Quốc đã nhập vào nước Lào để xây dựng những đại công tác ở đấy. Từ thủ phủ Côn Minh của tỉnh Vân Nam ở phía bắc, con đường số 3 sẽ đâm xuyên qua Luang Nam Tha của Lào, chạy dọc theo sông Mêkông cho đến Houei Xay đối diện với Chiang Khong bên Thái Lan. Nay mai một chiếc cầu sẽ xây để nối hai thành phố của hai nước. Xây xong, đường số 3 sẽ là tuyến giao thông chính nối Trung Quốc với Đông Nam Á. Đó là đường.

Ngoài ra, còn thủy điện, mỏ vàng, mỏ đồng, mỏ sắt, mỏ potasse, mỏ… bô xít. Nhiều dự án đại công tác khác còn hách hơn: sân vận động ở Vientiane cho Thế vận hội Đông Nam Á 2009; 1000 hecta đất đầm lầy cạnh thủ đô đặc nhượng cho một công ty Trung Quốc để xây một thành phố mới hiện đại, một Chinatown dành cho cư dân và doanh nhân Trung Quốc đến đầu tư; một Nhà văn hóa bề thế đã hoàn thành ở thủ đô; một khải hoàn môn kỳ vĩ cũng đã dựng lên, tô điểm cho công viên Patouxay một kiến trúc Lào độc đáo. Ba mươi ngàn công nhân? Thực tế có thể tăng gấp mười! (15)

Con số khó chính xác, bởi vì ngoài công nhân còn đủ loại, đủ hạng người Trung Quốc qua Lào làm ăn không khai báo: bước một bước qua biên giới chứ xa xôi gì, vậy là họ có thể đổi đời, vì ở Lào không có cạnh tranh! Họ đến từ đâu? Từ Hồ Bắc, từ Hồ Nam, từ Tứ Xuyên, từ Vân Nam, từ Vũ Hán, từ tận trong nội địa Trung Quốc.

Từ đâu cũng vậy, họ mang tên chung: xin yimin, tân di dân. Trong sòng bạc Boten, khách chơi hầu hết là Trung Quốc, nhân viên là Trung Quốc, tiểu thương mở quán chung quanh là Trung Quốc. Là xin yimin tuốt! Cũng vậy, chung quanh Luang Namtha, chạp phô là Trung Quốc, hàng quán mở chợ là Trung Quốc, khai khẩn đất đai là lái đất Trung Quốc được chính phủ Lào cấp đặc nhượng, đất rộng mênh mông, nằm mơ cũng không thấy được một tấc nơi chôn nhau cắt rốn (16).

Ngày trước, "Hoa kiều" chủ yếu đến từ các vùng biển miền nam Trung Quốc, quê hương của phần đông cộng đồng Trung Quốc trên thế giới, tập trung chung quanh 5 họ có ngôn ngữ địa phương riêng: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Khách Gia.

Bây giờ, đặc tính của xin yimin là đến từ đường bộ, hầu hết là nghèo mạt, đàn ông dĩ nhiên, phụ nữ độc thân cũng có, vợ chồng trót có hơn một con cũng nhiều: tất cả đều không kiếm được việc làm trên đất mẹ vì cạnh tranh dữ quá. Nếu trên thế giới này còn một chỗ không biết cạnh tranh thì ấy là đất Lào!

Làn sóng di dân này được Bắc Kinh khuyến khích, thúc đẩy, vì qua họ, không những hàng hóa sản xuất từ các tỉnh kém ưu đãi ở miền tây Trung Quốc được xuất khẩu, mà chính cả một vùng biên địa phía dưới Trung Quốc được bảo đảm an ninh vững như bàn thạch khỏi cần lính thú. Cho nên Trung Quốc rót tiền vào Lào, nghiễm nhiên trở thành ông chủ đầu tư số một với 236 dự án trị giá 876 triệu Mỹ kim, so với 3 triệu Mỹ kim năm 1996.

Tổng số kim ngạch đầu tư trực tiếp được chính phủ Lào chấp thuận cho đến tháng 8-2007 lên đến 1,1 tỷ Mỹ kim, sát nút với Thái Lan (1,3 tỷ), chưa kể viện trợ tính bằng cho vay không lãi, cho vay đặc biệt. (17)

Công nhân, nông dân, tiểu thương, doanh nhân… thiếu gì nữa? Đồng tiền! Nhân dân tệ cũng di dân! Đánh bạt cả đồng Mỹ kim! Quang cảnh khá ngoạn mục, tôi xin trích dẫn: "Ở miền bắc Lào, tài xế xe vận tải và công nhân Trung Quốc bây giờ dừng chân nơi các quán nước và hộp đêm tạm bợ mọc lên dọc theo đường xe, thường thường là những quán cốc bằng gỗ, mái tôn, mang bảng hiệu chữ Trung Quốc - tất cả đều trả bằng nhân dân tệ".

Bức tranh trở nên sống động hơn, lại xin trích: "Bên trong, các cô gái Lào và Trung Quốc tụm năm tụm ba nơi góc quán, đứng chờ khách kéo ra, trả giá, rồi mang đến các khách sạn hoặc các kho xe nhớp nhúa để làm tình kiểu mì ăn liền" (18). Chắc cũng trả bằng nhân dân tệ.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo hoàn toàn có lý khi đòi hỏi, trong điều thứ 5 của bài diễn văn khai mạc Diễn Đàn Boao, "phải thúc đẩy nhanh chóng việc mở ra một hệ thống tiền tệ quốc tế đa dạng".

Chuyện Miến Điện

Vậy mà Lào còn thua Miến Điện một bậc. Mandalay, thành phố lớn thứ hai ở phía bắc, trước đây là kinh đô của vương quốc, bây giờ trở thành một Tiểu Vân Nam, cư trú Tàu, làm ăn Tàu, xài tiền Tàu, nói tiếng Tàu, lấy chồng Tàu. Bao nhiêu dân Trung Quốc? Hai trăm ngàn? (20). Chỉ biết chắc chắn là con số càng ngày càng tăng, vì gót chân Nam tiến của người Vân Nam càng ngày càng rộn. Khách sạn, tiệm buôn, quán ăn mọc lên như nấm, và phong tục, lễ hội Trung Quốc càng ngày càng ăn sâu vào nếp sống của thành phố (21).

Nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày khai sinh thành phố trong lịch sử, nhà báo Kyaw Yiu Myint tiên đoán: ngày mà vận mạng của Mandalay sẽ nằm trọn trong tay cư dân Trung Quốc và công dân Trung-Miến bày ra trước mắt; ngày đó chắc khỏi phải chờ thêm 150 năm nữa (22).

Cùng với Mandalay, cả nước Miến Điện "phát triển kinh tế" trong quan tâm chiến lược của Trung Quốc về an ninh năng lượng cũng như về cách khống chế Ấn Độ và cả vùng Đông Nam Á. Miến Điện là nước độn nằm giữa hai ông khổng lồ đang gờm nhau và đang ghiền năng lượng trù phú mới khám phá trong cái nước trổ mặt nhìn Ấn Độ Dương này. Vân Nam và Tứ Xuyên bị khóa trong đất liền, không có lối thông ra biển? Thì ta mượn tạm cái Miến Điện này làm lộ thông thương!

Từ những năm đầu 1980, Miến Điện đã được chiếu cố đặc biệt nhờ vị thế thuận lợi đó. Xuyên qua Miến, thông ra biển, hai tỉnh nghèo Vân Nam và Tứ Xuyên sẽ tuôn hàng hóa ra buôn bán được với châu Phi, với Trung Đông, với Tây Á. Nước quá giang đó lại còn quý hiếm cho tàu bè Trung Quốc vì tránh được eo biển Malacca đầy bất an.

Cho nên nhu cầu ưu tiên của Trung Quốc là phải làm chủ lối vào các cảng Miến Điện. Đồng thời, Trung Quốc tăng cường kiểm soát trên các vùng dọc theo bờ biển Andaman, án ngự lối vào lối ra của trục Ấn Độ Dương - Malacca, xây cảng cho hạm đội. Ấn Độ nhìn chính sách của Trung Quốc đối với Miến Điện và Pakistan như dấu hiệu của một chiến lược bao vây hai vòng: bằng đường thủy và bằng đường bộ (23).

Về năng lượng, Trung Quốc cũng thắng. Từ tháng 7-2004, trước thủ tướng Miến qua thăm Bắc Kinh, Ôn Gia Bảo đã xác nhận tầm quan trọng của khí đốt ở Shwe và tuyên bố sẽ xây một ống dẫn khí và một ống dẫn dầu: khí sẽ dẫn từ Shwe đến các tỉnh lục địa tây-nam của Trung Quốc, dầu sẽ chuyển từ đường thủy qua đường bộ, chạy xuyên Miến Điện rót vào Vân Nam.

Các đại công tác bắt đầu từ đó, chưa kể việc xây các cảng và việc thăm dò các mỏ khí đốt khác được giao cho các công ty Trung Quốc. Một cảng mới đang được xây ở Kuauk Phyu, có sức nâng những tàu container lớn nhất thế giới. Một con đường cũng được dự tính xây để nối cảng này ở phía đông với cảng Sittwe ở phía tây.

Miến Điện đang là thị trường lớn nhất ở Đông Nam Á, sau Singapore, cho các tay đầu tư Trung Quốc. Cứ xem con số thì thấy: năm 1995, trị giá các dự án đầu tư của họ chỉ vỏn vẹn 20 triệu Mỹ kim; năm 1999, con số đã lên 192,69 triệu nhưng chưa thấm vào đâu so với con số trong khoảng 2000-2005. Bao nhiêu? Hơn 17 tỷ! (24). Nghĩa là gì? Là hàng hàng lớp lớp công nhân ta, trăng treo đầu cuốc xẻng, vượt biên làm nghĩa vụ xoá nghèo, xoá luôn biên giới, huynh đệ nhất gia.

Bao nhiêu? Bao nhiêu xin yimin có mặt hiện nay tại Miến Điện? Có tác giả ước đoán: một triệu (25). Chỉ riêng cái đồn điền mía do người Trung Quốc khai thác giữa vùng núi của dân tộc Shan ở phía bắc, giáp giới với thành phố Ruili của Trung Quốc, đã mang vào Miến Điện 5000 công nhân từ bên kia biên giới. Chẳng lẽ Miến Điện thiếu nông dân đến thế sao? (26). Một tác giả khác, cũng chuyên gia về Miến Điện, vuốt trán: "Di dân ngày nay được thực hiện trên một quy mô rộng lớn chưa bao giờ thấy ở Đông Nam Á". (27).

Chuyện Campuchia

Lại sát nách với ta, phải kể thêm Cămpuchia, cũng nằm trong cùng một quan tâm chiến lược. Thì cũng vậy! Trung Quốc cũng là nước đầu tư số một, viện trợ số một năm 2008. Con số chính thức do Tân Hoa Xã công bố là 5,7 tỷ Mỹ kim từ 1994 đến 2008, hơn 20% tổng số đầu tư trực tiếp ngoại quốc FDI. Tổng số viện trợ của quốc tế năm 2008 là 951,5 triệu Mỹ kim, một mình Trung Quốc đã chi 257 triệu (28).

Lại cũng vậy, đầu tư của Trung Quốc đổ vào thủy điện, hầm mỏ, lâm sản, thăm dò dầu, cầu cống, đường sá, chế biến nông phẩm. Công ty Trung Quốc là những tay đầu tư chủ yếu ở Đặc khu kinh tế mới phía nam cảng Sihanoukville. Cuối 2008, Trung Quốc tuyên bố sẽ tài trợ một đường rầy trị giá 5 triệu Mỹ kim nối Phnom Penh với Việt Nam.

Tình cờ chăng, Trung Quốc vừa hứa giúp trang thiết bị và kỹ sư để xây đường vào tận rừng rậm phía bắc Siem Reap thì lập tức các công ty lớn của Trung Quốc đâm đơn khai thác quặng sắt nghe nói là đầy hứa hẹn tại đấy. Ai đi qua thủ đô xứ ấy xin dừng chân trên đường Mao Trạch Đông ngắm nghía đại sứ quán Trung Quốc mới xây, phương phi, hoành tráng (29).

Vắt nguyên liệu, Trung Quốc cũng giúp Campuchia vắt môi trường, đất đai. Ví dụ thường đưa ra là quyết định năm 2004 của chính phủ nhượng cho tập đoàn bản xứ Pheapimex và đối tác tổ hợp Trung Quốc Wuzhishan đặc quyền khai thác 10.000 hecta đất tại tỉnh Mondulkiri để trồng thông. Ung dung, các công ty Trung Quốc lấn chiếm thêm đất đai. Uất ức, dân chúng bảo vệ. Tranh chấp nổ ra, đưa đến chống đối rồi đàn áp (30).

Một đặc nhượng đất đai lớn khác, khoảng 3000 hecta, tọa lạc trong một vùng ưu đãi, dường như vừa được cấp cho công ty xây dựng Trung Quốc YeejiaTourism Development:

Nhưng đại công tác đáng kể nhất của Trung Quốc ở Campuchia là xây đập. Tôi mượn một câu tả tình tả cảnh của một quan sát viên để hiểu vấn đề của người dân, ở đây là anh nông dân Phorn: "Vạch cỏ qua một bên, Phorn chỉ vào tảng đá dựng lên để làm dấu. "Công nhân Trung Quốc đến đây và đặt tảng đá ở đấy". Vài thước trước mặt, nước sông Mêkông rộng lớn nhuộm bùn xoáy trôi. Hỏi anh ta có biết tảng đá ấy dùng để làm gì không, anh gật đầu, chỉ tay vào lòng sông: "Người Trung Quốc muốn xây một cái đập ở đấy”. (33)

Nếu đập được xây thì sao? Thì cái nhà của anh nông dân và cả cái làng nghèo ấy sẽ biến mất dưới cái hồ khổng lồ do cái đập gây nên. Trung Quốc, quan sát viên ấy tường thuật, thúc đẩy việc phát triển một chuỗi đập thủy điện ở Cămpuchia, nhiều đập dọc theo sông Mêkông.

Ở thượng nguồn, ai cũng biết, Trung Quốc đã xây một chuỗi đập, thay đổi lưu lượng của sông, gây tác hại cho các nước ở hạ nguồn về sinh thái, về môi trường, về nguồn cá, về lũ lụt, về phá rừng. 80% của 70 triệu dân trong vùng sống nhờ sông, đông nhất là ở Campuchia và nam Việt Nam.

Nhưng mà này, anh Phorn, dân Vân Nam và Tứ Xuyên chúng tôi cũng đông vậy, và chênh lệch giàu nghèo giữa các tỉnh ấy với các tỉnh duyên hải phía đông chẳng phải là nguy hiểm cho ổn định xã hội của Trung Quốc sao? Cho nên đâu xây đập được là ta cứ xây, ở thượng nguồn thì đem lợi ích cho Vân Nam, ở hạ nguồn thì phát triển kinh tế cho hàng xóm nghèo, đại công tác vi quý, môi trường thứ chi, xã hội vi khinh.....

Di dân, văn hóa, sức mạnh mềm

... Chỉ mới vài năm thôi mà ngày nay khái niệm ấy đã đi vào ngữ ngôn rộng rãi, lại đã được Bắc Kinh chính thức tiếp thu, chính thức bàn luận, chính thức cho vào thực tế. Họ bàn luận với nhau: đâu là cái lõi của sức mạnh mềm? Lãnh đạo khuyến khích giới học thuật góp ý, và giới học thuật góp ý hồ hởi.

Hai trường phái hẳn hoi - chứ không phải một - tranh cãi nhau, một bên cho rằng cái lõi ấy là văn hóa, bên kia thì nói đó là chính trị. Lãnh đạo nghe ý kiến đôi bên, rồi quyết: cái lõi ấy là văn hóa, "văn hóa nhuyễn thực lực".

Trong một bài diễn văn nội bộ đọc vào tháng giêng 2006 trước một nhóm ngoại giao - "trung ương ngoại sự công tác lãnh đạo tiểu tổ" - chủ tích Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tuyên bố: "Việc phát huy vị thế quốc tế và ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc phải được biểu lộ bằng cả hai sức mạnh cứng, gồm kinh tế, khoa học, công nghệ, quân sự, và sức mạnh mềm như là văn hóa" (35).

Sau đó, tại đại hội đảng lần thứ 17, họp vào tháng 10 năm 2007, ông nói rõ thêm: "Văn hóa càng ngày càng trở thành một nguồn quan trọng của đoàn kết dân tộc và của sức sáng tạo, và một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh về toàn thể lực lượng quốc gia" (36). Cái sức mạnh mềm văn hóa ấy, cái wenhua ruan shili ấy, ông nói, Trung Quốc phải phát huy.

Lệnh ban ra, pháo bông văn hóa Trung Quốc nổ rực trên khắp bầu trời thế giới: hơn 40 Viện Khổng Tử dựng lên khắp nước Mỹ, 260 Viện trên 75 nước khác, nào "Năm Trung Quốc", nào "Tuần Văn Hóa Trung Quốc", nào "Thành Phố Huynh Đệ", nào lễ hội, nào trao đổi sinh viên, nào học bổng, dạy Hoa ngữ, phim, ảnh, sách, nhạc, triển lãm lịch sử, biểu diễn võ thuật, nào tiền bạc tài trợ - ngân sách dành cho hoạt động văn hóa năm 2006 tăng 23,9% so với năm 2005, đạt đến mức 12,3 tỷ tiền Trung Quốc. Khắp nơi, từ Nam Mỹ đến Trung Đông, Phi châu, chương trình khuếch trương văn hóa 5 năm, biểu quyết năm 2006, thắp sáng văn hóa Trung Quốc trên hoàn vũ.

Chương trình 5 năm ấy dành nguyên một chương cho chiến lược "bung ra toàn cầu", khuyến khích báo chí, truyền thông, xí nghiệp văn hóa "khuếch đại thông tin, bình luận về văn hóa và ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên quốc tế", bởi vì sức mạnh mềm nơi văn hóa của một nước không phải chỉ tùy thuộc vào sức hấp dẫn mà thôi, mà còn ở chỗ "có hay không được hậu thuẫn bằng những phương pháp và khả năng tuyên truyền mạnh mẽ" (37).

Trung Đông, Nam Mỹ, Phi châu đều có tôn giáo riêng, tập tục riêng của họ, văn hóa Trung Quốc có truyền vào cũng chỉ trang điểm phấn son cho dung mạo kinh tế, chính trị, quân sự.

Trái lại, đối với các nước gần, hoặc đã chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc từ bao nhiêu đời, hoặc đang chứa một số lượng người Trung Quốc quá đông, câu chuyện sẽ khác: sức mạnh mềm văn hóa ấy mềm như con tằm đang hẩu xực lá dâu.

Và như vậy, tôi trở lui với ông tác giả Barry Buzan thân mến đã nói trong những trang đầu. Ông này bảo, các anh chị còn nhớ: an ninh ngày nay chủ yếu là an ninh xã hội và xã hội được định nghĩa là bản sắc. Bản sắc là gì? Ông nói: là văn hóa.

Cao Huy Thuần
-----------------------------------------

Chú thích:

14. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc http://www.fmprc.gov.cn/eng/zxxx/t558306.htm hoặc: http://in.chineseembassy.org/eng/zgbd/t558306.htm
15. Bertil Lintner, China Ascendant, Part 1, Global Politician, 29-4-2008.
http://www.globalpolitician.com/24617-china
16. Kurtlantzick, trang 105.
17. Bertil Lintner, đã dẫn.
18. Kurtlantzick, trang 105-106.
20. Bronson Percival, The Dragon Looks South. China and Southeast Asia in the New Century,
Greenwood Publishing Group. 2007, trang 40. Có thể đọc trên mạng
http://books.google.fr/books?id=ihCCU-2EQHIC&dq=bronson+percival&printsec=frontcover&source=bl&ots=Z3t65J0g_K&sig=2
lucFCUwLjS_hmWDetBWLyC09tE&hl=fr&ei=hq9QSsykI5fLjAeouYyqBQ&sa=X&oi=
book_result&ct=result&resnum=6
21. Min Lwin, The Chinese Road to Mandalay, The Irrawaddy, march-april 2009, vol. 17. n° 2.
22. như trên.
23. Laurent Amelot: La compétition énergétique indo-chinoise en Birmanie, Stratégique, n° 70-71.
Có thể đọc trên mạng: www.strategiesinternational.com/19_11.pdf
24. Zhuang guotu & Wang wangbo, Migration and Trade: The Role of Overseas Chinese and
Economic Relations between China and Southeast Asia - International Conference on
"China"s Future: Pitfalls, Prospects and the Implications for ASEAN and the World",
University of Malaysia, Institute of China Studies, 5-6 May 2009, http://ccm.um.edu.my/umweb/ics/may2009/wangwb.pdf
25. Bronson Percival, đã dẫn, trang 40
26. Zhuang &Wang đã dẫn.
27. Guy Lubeigt, La nouvelle poussée chinoise en Birmanie: immigration traditionnelle ou stratégie de conquête, http://www.reseau-asie.com/cgi-bin/prog/pform.cgi?langue=fr&Mcenter=colloque&TypeListe=showdoc&ID_document=240
28. China"s Cambodian Hegemony, The Diplomat, May-June 2009
29. như trên
30. như trên
33. China"s Cambodian Hegemony, The Diplomat, May-June 2009
34. Chinese Soft Power… đã dẫn, trang 31
35. như trên, trang 15-16
36 và 37. như trên, trang 16

"LIÊN ĐỚI, CHỦ QUYỀN, THẮNG-THẮNG"

(TuanVietNam) - Di dân là một bộ phận trong chính sách đầu tư, viện trợ, trao đổi - trong "sức mạnh mềm" tỏa ra khắp năm châu bốn biển của Trung Quốc.

Trong bài tham luận tại Hội thảo hè 2009, GS Cao Huy Thuần đã chia sẻ góc nhìn về xu hướng di dân hiện nay của một số quốc gia trên thế giới.

Ông mô tả: Di dân đã thành ra chính sách, hỗ trợ bằng ngoại giao, và chính sách ấy là một bộ phận trong chính sách đầu tư, viện trợ, trao đổi - trong "sức mạnh mềm" tỏa ra khắp năm châu bốn biển của Trung Quốc. Đường sá, cầu cống, đập thủy điện, trường học, bệnh viện, sân bay… những hạ tầng cơ sở trọng yếu đó của phát triển kinh tế, nhất là ở Phi châu, đã thực hiện với thợ thầy Trung Quốc.


Vâng, sách vở nào bây giờ cũng đều nói đến chuyện ấy nhàm tai: cùng với phát triển kinh tế và nhu cầu xài năng lượng, sức mạnh mềm của Trung Quốc đang tỏa ra khắp thế giới, trên mọi lĩnh vực, chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, công nghệ, bán khí giới, viện trợ, y tế, thương mãi, du lịch, văn hóa, nhất là văn hóa.

Riêng về lĩnh vực xã hội mà chúng ta đang bàn ở đây, sách vở nói: vì Trung Quốc đã trở thành tay đầu tư quốc tế, tay lái buôn quốc tế, chính phủ họ không những dẹp bỏ những hạn chế về di dân trong nội địa mà còn làm dễ dàng việc xuất ngoại của dân chúng để kinh doanh, để du lịch. Hàng loạt, hàng loạt doanh nhân được khuyến khích đi ra nước ngoài đầu tư, hàng loạt, hàng loạt công ty mở ra ở ngoại quốc, hàng loạt, hàng loạt công nhân đi theo, hàng loạt, hàng loạt du khách "xỉa răng" trên mọi đường phố.

Di dân hàng loạt

Di dân… Có bao giờ nước Trung Hoa ngớt di dân trong lịch sử đâu, nhưng di dân ngày nay không phải như trước: ngày nay người Trung Quốc di dân hàng loạt. Ước tính của các tổ chức lao động là công nhân Trung Quốc nhập biên các nước ngoài tăng mỗi năm khoảng 20%, phần đông "hề" một tiếng như Kinh Kha vượt sông Dịch, "tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn".

Con số chính xác thì khó có và khó biết đúng sai, nhưng tạm ghi về khuynh hướng tăng vọt ở Phi châu, nơi Trung Quốc hốt năng lượng, nhiên liệu: 24.000 ở Sudan năm 2004, gấp ba so với những năm trước; 50.000 ở Nigeria, so với 2000 năm 2001; 300.000 ở Nam Phi (4).

Mới đây, nhân một vụ đụng độ giữa di dân Trung Quốc với người bản xứ ở Alger, báo Le Monde đưa ra con số 50.000 công nhân Trung Quốc đóng đô ở đấy (5). Cũng vậy, con số cũng tăng vọt ở Nam Mỹ: 60.000 ở Peru, chưa kể hậu duệ của công dân Peru gốc Hoa còn đông hơn thế nhiều lắm; 50.000 ở Venezuela; 100.000 ở Brazil; 30.000 ở Mêhicô; 7000 ở Columbia.

Thống kê ở Canada ghi: năm 2001, hơn 1 triệu dân gốc Hoa sống trong nước (6). Riêng con số lấy được ở cái xứ nhỏ Costa Rica thì vừa chính xác lại vừa lý thú về nhiều mặt, trước hết là mặt phụ tình.

Giống như các nước châu Mỹ la tinh khác, Costa Rica "chăn gối" với Đài Loan ngót 63 năm, vậy mà bây giờ bứt ra thiếp phụ chàng, thiết lập ngoại giao chính thức với Bắc Kinh từ tháng 6-2007. Thương mãi giữa hai bên đã tăng gấp 10 lần, Đài Loan đọ hết nổi, mất pháo đài đầu tiên ở Nam Mỹ, điểm nhắm của Bắc Kinh.

Ân nghĩa sòng phẳng, Trung Quốc ký hiệp ước vào tháng 5-2008 cho không 10 triệu đô la tiền mặt, hứa cho thêm 72 triệu nữa để xây một sân vận động mới toanh và mang qua… 800 công nhân Trung Quốc để thực hiện công tác đó. Con số 800 tuy khiêm tốn, nhưng ôi, tiêu biểu biết bao cho cả một chính sách đại công tác áp dụng khắp nơi (7).

Ở Costa Rica, mục tiêu của Trung Quốc, ngoài kinh tế, còn là chính trị: phá vỡ phòng tuyến của Đài Loan, phất cao ngọn cờ "Trung Quốc là một". Ở các vùng khác, mục tiêu đó không có, nhưng mẫu mực viện trợ, mậu dịch, đầu tư, xây dựng, phát triển kinh tế giống nhau.

Ví dụ ở Angola. Cùng với Sudan và Nigeria, Angola là đối tượng dầu hỏa ở Phi châu mà Trung Quốc nhắm, nhưng Angola khác Sudan ở chỗ nước này bị quốc tế cấm vận, các công ty phương Tây bỏ rơi, nên Trung Quốc vẫy vùng như giữa chốn không người, còn ở Angola họ phải cạnh tranh ráo riết. Bởi vậy, Trung Quốc phải tuốt ra cả một giàn khí giới, từ ngoại giao đến cho vay, với những thủ thuật mập mờ, chẳng ai biết rõ chi tiết.

Bắt đầu từ 2004, Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (Exim Bank) cho vay 2 tỷ Mỹ kim để tái thiết cơ sở hạ tầng bị chiến tranh phá hủy. Gãi đúng chỗ, vì đây là lúc Angola đang ngứa tiền, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế buộc phải minh bạch kinh tế và cải cách chính trị mới cho vay.

Đối tác vẫn còn ngứa, Exim hào phóng cho vay thêm một đợt thứ hai 2 tỷ nữa vào tháng 9-2007. Với điều kiện gì? Nhiều công ty Trung Quốc sẽ đến tận nơi để xây dựng, mang theo dụng cụ, trang thiết bị và… công nhân. Bao nhiêu? Hàng chục ngàn! Dân Angola thất nghiệp tràn lan, thèm việc ấy như dân Bắc Kinh hẫu vịt quay (8).

"Chúng ta đều là Đông phương"

Nghĩa là gì? Nghĩa là di dân đã thành ra chính sách, hỗ trợ bằng ngoại giao, và chính sách ấy là một bộ phận trong chính sách đầu tư, viện trợ, trao đổi - trong "sức mạnh mềm" tỏa ra khắp năm châu bốn biển của Trung Quốc. Đường sá, cầu cống, đập thủy điện, trường học, bệnh viện, sân bay… những hạ tầng cơ sở trọng yếu đó của phát triển kinh tế, nhất là ở Phi châu, đã thực hiện với thợ thầy Trung Quốc.

Chưa kể những công trình khác, kém cần thiết nhưng oai vang hơn: sân vận động, công thự, toà nhà Quốc hội… Dưới khẩu hiệu "Liên đới, Chủ quyền, Thắng-Thắng", đầu tư, nhiên liệu, năng lượng, đại công tác bay cùng bầy với nhau như chim một đàn.

Vừa xông tay ra để nắm yết hầu của các nguồn năng lượng trên thế giới, vừa phóng việc làm cho hơn 23 triệu nông dân ùn ùn kéo lên thành phố trong nội địa (9), lại vừa được tiếng là anh em giúp nhau win-win trong các nước kém mở mang, sách vở nói Trung Quốc đang thành công như diều gặp gió.

Ấy là chưa nói đến du lịch, tuy rằng đây không phải là di dân, chỉ là lượng người di chuyển. Bao nhiêu? Con số du khách Trung Quốc đi ra thế giới có thể lên đến 100 triệu vào năm 2015, đông nhất hoàn cầu. Các nước Ả Rập ở Trung Đông đang hí hửng trước cái thị trường khổng lồ ấy.

Riêng Ai Cập, con số 35.000 đạt được năm 2005 có thể tăng lên 80.000 trong những năm tới. Báo chí, truyền thông Trung Quốc tung hô khẩu hiệu ngọt như mía lùi: "We"re all East"! "Chúng ta đều là Đông phương"! Tài thế! (10). Trong số 100 triệu ấy, ước tính một phần ba thích chọn Đông Nam Á, vừa gần, vừa rẻ, vừa đủ tiện nghi, mọi bộ phận của thân thể đều có dịch vụ tương ứng, cung cấp sung mãn. Thái Lan hy vọng thâu nhận ít nhất 4 triệu mỗi năm từ cuối thập kỷ này (11).

Di dân kiểu mới

Cũng liên quan đến việc di dân kiểu mới, phải kể chính sách đầu tư đất ruộng ở nước ngoài để phòng xa bảo đảm an ninh lương thực trong nước. Về mặt này, Trung Quốc không làm khác Hàn Quốc, các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Nhật và Ả rập Xê út: năm nước ấy hiện nay chiếm hơn 7,6 triệu hecta đất canh tác ở bên ngoài, nghĩa là tương đương với 5,6 lần diện tích canh tác của nước Bỉ.

Với tốc độ thành thị hóa và lượng nước kém dần, đất canh tác càng ngày càng hiếm, sản xuất lương thực có cơ giảm sút trầm trọng. Cho nên Trung Quốc xem việc tậu đất canh tác ở ngoại quốc như một chính sách ưu tiên: ông khổng lồ ấy chiếm 40% tổng số dân sống về canh nông trên thế giới nhưng chỉ có 9% đất cày cấy được trên hoàn cầu.

Năm 2006, Trung Quốc ký nhiều thỏa ước hợp tác canh nông với nhiều nước Phi châu để thành lập 14 nông trường thí nghiệm ở Zambie, ở Zimbabwe, ở Ouganda và Tanzanie. Bao nhiêu nông dân Trung Quốc sẽ đến canh tác? Một triệu vào năm 2010. Khỏi cần thi tuyển sinh vì bao nhiêu nông dân thất nghiệp trong khủng hoảng hiện tại đều sẵn sàng khăn gói lên đường tuốt.

Ngôn ngữ chính thức của Bắc Kinh là: giúp các nước ấy tăng gia lượng sản xuất nhờ công nghệ Trung Quốc. Các giống lúa lai mà Trung Quốc chế tạo được sẽ làm tăng năng suất lên 60% so với năng suất trung bình trên thế giới.

Có thể lắm. Nhưng chắc chắn một số lượng lớn mùa màng thu hoạch sẽ được xuất khẩu qua Trung Quốc để bảo đảm lượng lương thực trên thị trường (12). Bảo đảm an ninh về lương thực, hợp tác về canh nông, nhu yếu đó cũng lộ ra trong các thỏa ước về phát triển ký kết với các nước Nam Mỹ.

Chưa hết. Mắt xanh của Bắc Kinh đang liếc qua đất trống mênh mông ở Nga và Trung Á. Đất trống như vậy, sao ta không thuê? Lưỡng lự, vì sợ dân phản đối, nhưng rồi Kazakhstan cũng âm thầm cho một công ty Trung Quốc-Kazakhstan thuê 7000 héc ta đất để trồng lúa mì và đậu nành. 3000 nông dân Trung Quốc vọt qua biên giới, mang theo khí cụ canh tác hiện đại hơn, nông dân bản xứ có giận cũng đành chịu.

Và đất Nga! Mênh mông vô tận xứ! Dường như trời sinh đất ấy cho đậu nành Trung Quốc. Cách Matscơva đến 6000 cây số nhưng chỉ cách Bắc Kinh 2000 cây số thôi, hai vùng Khabarovski và Birobidjan đã mang về cho Trung Quốc 420.000 tấn đậu nành trong năm 2008.

Còn cả 20 triệu héc ta đất trồng trọt chưa khai thác ở bên kia biên giới, bên này thì thèm đậu nành, bên kia thì thèm tiền thuế, ông Nga có gì bận tâm ngoài việc ngồi chơi xơi tiền? Có chứ! Thống kê chính thức của Bộ Nội vụ Nga bóp còi: đã có từ 400.000 đến 700.000 dân Trung Quốc đang tọa lạc trên đất Nga (13).

Cao Huy Thuần * Mời độc giả xem tiếp kỳ 3

----------------------------------------------

Chú thích

4. Joshua Kurlantzick, Charm Offensive. How China"s Soft Power is transforming the World, Yale University Press, 2007, trang 104. Có thể đọc trên mạng: http://books.google.fr/books?id=RXtJw1OHDTIC&dq=joshua+kurlantzick+charm+offensive&printsec=frontcover&source=bn&hl=fr&ei=ZqRQSoTeFuKfjAeq_MGnBQ&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=4
5. Le Monde 7-8-2009.
6. Chinese Soft Power and It"s Implications for the United States, Center for Strategic and International Studies, Washington DC, 2009, trang 47.
7. như trên, trang 99.
8. như trên, trang 30.
9. Con số 23 triệu là do Sở thống kê quốc gia đưa ra. Con số này chưa tính đến số nông dân đã mất việc làm ở thành phố từ tháng 12-2008. Xem Le Monde 29-7-2009 (bài "Le lynchage d"un cadre, symtôme d"une économie chinoise malade"). Có chỗ nói con số đó là 26 triệu (Le Monde 16-4-2009, mục Entretien, trang 18).
10. như trên (chú thích 8 và 9) trang 74.
11. Kurlantzick, đã dẫn, trang 106.
12. Marie-Béatrice Baudet et Laetitia Clavreul, Les terres agricoles, de plus en plus convoitées, Le Monde 15-4-2009.
13. Le Monde 21-4-2009 (bài viết nhan đề: "Après une offensive secrète au Kazakhstan, la Chine lorgne les terres russes inexploitées").


*(Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của tác giả)

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2009

BÀN VỀ AN NINH

(TuanVietNam) - Mỗi quốc gia mỗi khác, nhưng điểm khác biệt căn bản nhất phải xét là sự vững chắc, gắn bó, đoàn kết về xã hội, chính trị.

GS Cao Huy Thuần luôn gần gũi và sâu sắc khi luận bàn về các vấn đề thế sự. Khi bàn về an ninh, ông viết như sau:

Mỗi quốc gia mỗi khác, nhưng điểm khác biệt căn bản nhất phải xét là sự vững chắc, gắn bó, đoàn kết về xã hội, chính trị. An ninh của quốc gia không nằm ở đâu khác. Tiêu chuẩn để phân biệt giữa quốc gia "mạnh" và "yếu" cũng nằm ở trên đó: một quốc gia "mạnh" là quốc gia có nhiều khả năng đối đầu với những đe dọa về an ninh hơn một quốc gia "yếu".

Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu bài tham luận của ông với tựa đề An ninh tại Hội thảo hè 2009.


Sức mạnh quốc gia

Khuynh hướng áp đảo cho đến gần đây trong lý thuyết quan hệ quốc tế đồng hóa an ninh với quốc phòng, định nghĩa an ninh như khả năng có thể ngăn chặn được một xâm lược vũ trang đến từ bên ngoài. Cách nhìn này xuất phát từ lý thuyết được gọi là duy thực, theo đó thực tế nổi cộm trong quan hệ quốc tế là sức mạnh của các quốc gia.

Trên tiêu chuẩn sức mạnh đó, ta có thể xếp hạng các quốc gia trên thế giới - nhược tiểu, trung cường, bá chủ, siêu cường… - cũng như nghiên cứu chiến lược của các quốc gia để làm chiến tranh, để bảo vệ chủ quyền - thế liên minh, thế cân bằng lực lượng, thế trung lập, thế không liên kết, thế môi hở răng lạnh, thế đoàn kết anh em vv…

Với cách nhìn đó, quốc gia là chủ thể trên bàn cờ quốc tế và an ninh là nghề của hai chàng, chàng ngoại giao và chàng tướng tá, chàng này đánh, chàng kia đàm. Đánh và đàm, quan hệ quốc tế chủ yếu là như thế: là hòa bình và chiến tranh.

Lúc nhỏ, ta cũng học lịch sử như thế, toàn là anh hùng và trận mạc. Lớn lên với chiến tranh lạnh, lại chạm trán với bom nguyên tử và hai khối, trong đầu sừng sững bức tường Berlin, trước mắt ầm ầm B52 củng cố vĩ tuyến, đâu mà chẳng thấy phô trương sức mạnh quân sự như là yếu tố hàng đầu trong việc đo lường sức mạnh quốc gia? Có lý thuyết nào ăn đứt được lý thuyết duy thực!

Thế rồi chiến tranh lạnh chấm dứt, bom đạn rút lui, nhường đằng trước sân khấu cho thương mãi, hàng hóa, sản xuất, kinh tế. Đe dọa quân sự im lắng, rất nhanh một loạt hiểm nguy xuất hiện, bất kể biên giới quốc gia, bất cần phân biệt lớn nhỏ mạnh yếu, đe dọa bên trong các nước, trong dân chúng, trong xã hội: bệnh dịch, môi trường, khủng bố, ma túy…

Quan tâm về an ninh, do đó, chuyển từ bên ngoài các quốc gia vào bên trong các xã hội, nới rộng khái niệm an ninh ra đến các cá nhân, các xã hội, biến an ninh xã hội thành đối tượng tranh chấp, đối tượng nghiên cứu trong quan hệ quốc tế.

Tác giả đầu tiên nâng an ninh xã hội lên mức đối tượng nghiên cứu độc lập và biệt lập với an ninh quốc gia là Barry Buzan. Để làm như vậy, trước tiên ông phải định nghĩa "xã hội" là gì.

Ông viết: "Chìa khóa để hiểu xã hội là những ý nghĩ và tập quán đồng hóa các cá nhân như là thành phần của một nhóm xã hội. Xã hội là liên quan đến bản sắc, liên quan đến quan niệm về mình của các cộng đồng và của các cá nhân tự đồng hóa mình như là thành phần của một cộng đồng" (1).

Tiêu chuẩn phân định quốc gia mạnh - yếu

Trong định nghĩa đó, bản sắc là khái niệm cốt tủy. Vì sao? Vì di dân đã trở thành một thực tại quốc tế ngày nay, và, dưới mắt các xã hội nhập cư, di dân đe dọa bản sắc của dân tộc tiếp quản. "Xã hội, tận căn bản, là liên quan đến bản sắc", ông nhắc lui nhắc tới (2). Và "an ninh xã hội liên quan đến khả năng của một xã hội để trường tồn trong đặc tính căn bản của xã hội ấy khi hoàn cảnh thay đổi" (3).

Bản sắc và di dân: quả thật đó là quan tâm an ninh hàng đầu hiện nay ở Âu Mỹ sau khi đe dọa chiến tranh lắng xuống. Tại Mỹ, vấn đề đã được đặt ra từ lâu, nhất là đối với di dân từ Mexico, nhưng bây giờ lại thêm lo ngại nữa từ phía thế giới Hồi giáo tiếp theo sự cố 11-9.

Tại Âu châu cũng vậy, đồng hóa dân ngụ cư Ả Rập-Hồi giáo là chuyện nan giải, không đâu làm được, giới cực hữu tha hồ khai thác mối sợ hãi bàng bạc trong dân gian. Nhưng hiện tượng di dân đâu phải chỉ đe dọa Mỹ với Âu! Ở nhiều nơi khác, tình trạng trầm trọng thực sự, trầm trọng đến mức báo động, nhất là khi di dân trở thành chính sách của nước gửi dân đi. Cứ nhìn Tây Tạng thì biết.

Buzan mở đầu cho cả một trào lưu nghiên cứu mới hiện nay, đặt trọng tâm trên an ninh xã hội thay vì an ninh quân sự trong quan hệ quốc tế. Trường phái mà ông hướng dẫn - được gọi là "trường phái Copenhagen" - đưa ra nhiều ý mới. Chẳng hạn trong tương quan giữa di dân và chính sách an ninh của các nước, họ vạch ra hai yếu tố quan trọng: sự khác biệt giữa các quốc gia và việc an ninh hóa những vấn đề chính trị.

Về điểm thứ nhất, ai chẳng biết các quốc gia vốn khác nhau về mọi mặt, nhưng cách nhìn của Buzan không phải là nhìn từ bên ngoài các quốc gia như phái duy thực chủ trương, mà từ bên trong mỗi quốc gia để phân biệt văn hóa, ý thức hệ, chính thể… Mỗi quốc gia mỗi khác, nhưng điểm khác biệt căn bản nhất phải xét là sự vững chắc, gắn bó, đoàn kết về xã hội, chính trị. An ninh của quốc gia không nằm ở đâu khác.

Tiêu chuẩn để phân biệt giữa quốc gia "mạnh" và "yếu" cũng nằm ở trên đó: một quốc gia "mạnh" là quốc gia có nhiều khả năng đối đầu với những đe dọa về an ninh hơn một quốc gia "yếu".

Về điểm thứ hai, vì mỗi quốc gia mỗi khác như vậy, nên bản chất của vấn đề an ninh cũng thay đổi tận căn bản từ quốc gia này qua quốc gia kia, không phân biệt yếu mạnh. Nói khác, không thể có một định nghĩa chung cho tất cả các quốc gia về vấn đề an ninh, mỗi quốc gia tự định nghĩa lấy khi chạm mặt với những vấn đề cụ thể. Điều đó có nghĩa rằng không thể định nghĩa các luồng di dân như là một vấn đề an ninh có cùng và có sẵn những biện pháp đối phó bất cứ ở đâu. Ngay cả chuyện di dân, có thể nước này xem đó là một vấn đề an ninh mà nước kia thì không.

Bởi vậy, định nghĩa di dân có phải là quan tâm an ninh hay không còn tùy thuộc vào sự an ninh hóa vấn đề di dân. An ninh hóa có nghĩa là một vấn đề được trình bày như là một đe dọa liên quan đến chính sinh mạng, đòi hỏi phải có những biện pháp cấp bách, tương ứng, khác với những vấn đề chính trị bình thường. Vấn đề đó có thực hay không, không phải là chuyện đáng xét; chuyện đáng xét là vấn đề đó được trình bày như là một đe dọa liên quan đến sinh mạng.

Ba kịch bản của di dân

Điều này hàm chứa ba kịch bản khác nhau. Một, là các nhóm xã hội trong một nước xem một cộng đồng di dân nào đó như là đe dọa trong khi các nhóm khác thì không nghĩ như thế. Hai, là cộng đồng di dân nào đó không tạo nên một đe dọa gì thực sự cho nước di trú, nhưng những nhóm xã hội nào đó trong nước ấy thuyết phục được mọi người xem đó như là đe dọa. Ba, là cộng đồng di dân nào đó thực sự là một đe dọa, nhưng nhà cầm quyền, vì lý do gì gì đó, cứ nguây nguẩy nói không, nghĩa là từ khước, không chịu an ninh hóa.

Từ bên ngoài đi vào, di dân có thể gây bất ổn an ninh cho xã hội bên trong một nước nếu nước ấy thiếu bền vững xã hội; bất ổn ấy, nếu giải quyết không xong, không những loạn xảy ra ở bên trong mà còn có cơ tuôn ra bên ngoài để trở thành tranh chấp quốc tế.

Do đó, muốn nghiên cứu vấn đề di dân, không thể không nhìn tầm cỡ của nước gửi dân đi, vị thế của nước đó trên thế giới, chính sách của nước đó, quan hệ của nước đó với nước tiếp quản. Di dân là vấn đề an ninh số một trong nghiên cứu quan hệ quốc tế ngày nay. Buzan và trường phái Copenhagen trở thành sách giáo khoa trong giới đại học.

Tóm tắt lý thuyết như thế này, tôi biết là quá sơ sài, nhưng tôi đâu có muốn bàn ở đây chuyện di dân ở Âu Mỹ xa xôi? Tôi hạn chế vấn đề vào các nước sát nách chúng ta thôi, nhưng tôi phải trình bày chút lý thuyết như vậy bởi vì, như vừa nói, nước di dân ở trên đầu chúng ta có vai vế quốc tế quá chóng mặt, không thể nhìn nước ấy di dân mà không xét chính sách của nước ấy trên tầm quốc tế.

Cao Huy Thuần

* Mời độc giả theo dõi tiếp kỳ 2.
--------------------------------------

Chú thích:

1. Ole Waever, Barry Buzan, Mortel Kelstrup & Pierre Lemaitre: Identity, Migration and the New Security Agenda in Europe, London, Pinter, 1993, tr. 21.
2. Như trên, tr. 6.
3. Như trên, tr. 23.

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2009

THƯ VIẾT TỪ HÀ NỘI


Chúng tôi cùng nghĩ như bạn Trí Nhân: Cái xác chữ chẳng là gì. Cái thần của chữ mới làm nên văn hóa. Cái thần ấy gọi là hồn nước, tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người dân Đại Việt. Nhiệm vụ của những người cầm bút chân chính là dựng dậy tinh thần Đại Việt...

Kính gửi Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh,

Chúng tôi ở xa, đọc báo Văn nghệ TPHCM không đều. Tuy nhiên gần đây qua một số bài có tính khảo cứu về lịch sử và văn hóa, chúng tôi rất tâm đắc. Thực tình không biết người viết chuyên sâu tới mức nào nhưng bài viết dựa trên những căn cứ lịch sử hiển nhiên, có tâm, có tình, thuyết phục và được nhiều bạn đọc hoan nghênh.

Một tờ báo Văn lại viết những vấn đề về Sử không phải là một việc làm tréo ngoe vì người viết văn được trang bị những kiến thức Sử và Triết càng sâu thì ngòi bút càng vững vàng chín chắn. Trong khi nhiều báo chuyên đề Văn hóa xã hội và Lịch sử nếu không làm ngơ thì lại có những bài viết mập mờ lẫn lộn trắng đen, thậm chí trái chiều lịch sử nên những bài của qúy báo là rất cần thiết. Vả chăng, bảo vệ sự chân thực lịch sử là trách nhiệm công dân, nhất là với người cầm bút.

Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân, chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa Đại Việt ta.

Thực ra người Việt từ xa xưa đã có chữ viết riêng, trước khi có chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Chữ Việt cổ là thứ chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học của ta lâu nay như Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Hà Văn Tấn, Lê Huy Nghiệm, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Khánh, Phạm Ngọc Liễn… đã có những khám phá và còn tiếp tục dò tìm. Những nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa như Từ Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu… đều khẳng định người Việt ta đã có chữ viết riêng từ rất sớm.

Năm 1855, Tri châu Phạm Thận Duật ở Tây Bắc tìm ta một bộ chữ lạ có cấu trúc gần giống với chữ Mường cổ. Gần đây, nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và nền giáo dục thời Hùng Vương do các nhà văn Khánh Hoài và Đỗ Văn Xuyền chủ trì, cho rằng ngữ tự này có thể là biến thể của chữ Khoa đẩu, hay còn gọi là Hỏa tự đã được ghi trong cổ sử, nghĩa là nó có từ thời vua Hùng. Bộ chữ ấy còn lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Kết hợp với bộ môn Khảo cổ học, người ta thấy trên các mặt trống đồng và nhiều di vật cổ xưa khác khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở phía nam Trung quốc, có một dạng ký hiệu giống nhau, như hình con nòng nọc và phát hiện ra đó chính là tự dạng để ghi lại những âm thanh cấu thành từ ngữ.

Đó chính là chữ Việt cổ. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ xưa lắm, xa trước Công nguyên nhiều. Nó tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Các nhà nghiên cứu đã mã hóa được các tự dạng đó và đã giải mã được các ký tự Việt cổ. Từ đó bật ra được tiếng nói của tổ tiên thời tiền sử… Đời vua Nghiêu, để giữ hòa hiếu giữa hai nước, người Việt đã đem Thần Quy ngàn năm tuổi tặng, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu, chép việc từ thời khai thiên lập địa, nội dung như sau: Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng. Bậc quân vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương – là hậu duệ của Thần nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong làm chủ Nam Việt, kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngân – con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy. (Ngọc phả Liệt phả liệt vị Đại vương – La Nội, Hà Nội; Ngọc phả đền Tứ Lạc Long quân chi tử – Lập Thạch, Vĩnh Phúc; sách Tân lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh)… Nhờ biết giải mã các ký tự cổ đó, người ta phát hiện ra một điều thú vị: Những từ vô lý (Suấy = suối; São le = song le; Đàng lão = Đàng trong; Thần Nõu = Thần nông; Lạc Lão Cuôn = Lạc Long quân…) trong chữ Quốc ngữ buổi đầu (có trong từ điển và các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu trúc của chữ Khai đẩu và thay vỏ La-tinh vào. Nó còn giúp các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ rải rác trong dân và trong các thư viện ở Lisbon, Rhoma, Paris…

Chữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc. Hệ thống giáo dục ở nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ. Người Lạc Việt đã làm nên nền văn minh Đông sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên và chữ Việt cổ có một không gian phân bố vô cùng rộng lớn (Lê Trọng Khánh).

Tiếc rằng tổ tiên ta chịu một quá trình lâu dài đô hộ với âm mưu huỷ diệt nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá dân tộc của các nước lớn ngoại bang. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước nhất bởi nó phản ánh tư tưởng, tâm hồn của một dân tộc.
Thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt bộ chữ Khoa đẩu của người Việt cổ. Sách sử truyền rằng Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về khai hoá cho dân tộc Nam man hay là việc đó nằm trong chủ tâm thâm trầm độc địa của quốc gia xâm lược?! Đời này qua đời nọ, con chữ ngoại lai được tôn lên vị trí chính thống, dùng mãi dần quen đi, thì đồng thời con chữ truyền thống của dân tộc cũng bị lãng quên và chìm dần vào dĩ vãng! Chữ Khoa đẩu do không được phổ biến nên bị đóng băng, dần không phát triển kịp theo những biến âm trong tiếng nói của người Việt qua từng thời kỳ phát triển, mặc dù nó vẫn âm thầm tồn tại trong giao tiếp dân gian. Tuy nhiên, sức sống của người Việt vô cùng mạnh mẽ. Với khát vọng độc lập tự do luôn thôi thúc, từ chữ Hán tượng hình, người Việt chế tác ra thứ chữ Nôm cho riêng mình và chỉ qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá Việt Nam cận đại với bản sắc riêng.

Đến thời thuộc Pháp, một lần nữa, chữ viết của người Việt – chữ Nôm, lại bị bức tử! Một bộ chữ mới gọi là Quốc ngữ ra đời. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt thì sự ra đời của chữ Quốc ngữ có những đặc thù riêng. Phải chăng, chữ Việt cổ cùng trên cơ sở với chữ La-tinh tượng thanh, đã mau chóng được các linh mục đồng thời là những nhà ngôn ngữ học không chủ ý người phương tây tiếp nhận, sáng chế ra một dạng chữ đơn giản và dễ phổ cập là chữ Quốc ngữ ta dùng hiện nay. Tuy nhiên, để hình thành bộ chữ mới này, mấy ông tây dù học thức, thông thái đến đâu cũng không thể thâm nhập sâu vào đời sống dân dã để làm nên những quyển từ điển dày dặn công phu với những từ ngữ dân gian khá phong phú, kể cả những lời chửi tục mà chỉ được dùng với những người thân cận trong trạng thái tình cảm thất thường. Tất nhiên họ phải có những người bản địa cộng tác đắc lực.

Theo Roland Jacques – nhà nghiên cứu ngôn ngữ học người Pháp, thì số người Việt góp công trong sự phát minh ra chữ Quốc ngữ lúc sơ khai gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất thuộc giới có học, là những thầy đồ, thầy tu thuộc nhiều tông phái Phật, Khổng, Lão, Trang…, quan lại, sỹ tử… hiểu nhiều tiếng mẹ đẻ, am tường nền văn hóa dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là các thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ-đào, La-tinh giúp các giáo sỹ đi truyền đạo. Tất nhiên, số người Việt này phải hơn gấp nhiều lần so với các nhà truyền giáo tây phương. Điều hiển nhiên là trước khi có cuốn từ điển Việt-Bồ-La của giám mục Alexandre de Rhodes thì đã có những giám mục Bồ-đào-nha đến đây sớm hơn, hướng dẫn A.Rhodes và để lại những công trình ngôn ngữ cụ thể, như Francisco de Pina, Gaspa de Amaral, Antonio Barbosa. Chính Giám mục A.Rhodes thừa nhận đã sử dụng công khó của hai ông (G.Amaral với cuốn từ điển Việt-Bồ và A.Barbosa với cuốn từ điển Bồ-Việt) và thêm vào đó phần tiếng La-tinh. Cho nên R. Jacques đề nghị: Cần thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ-đào-nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu. Vậy là đã rõ, việc làm của Alexandre de Rhodes, nên được coi như có phần đóng góp cải tiến chứ không thể vinh danh đơn phương là người khai sáng ra chữ Quốc ngữ ngày nay.

Việc cải tiến và đưa chữ Quốc ngữ vào đời sống của người Việt là cả một quá trình dài không đơn giản. Ý đồ hủy diệt một nền văn minh lâu đời của một dân tộc ở phương Đông không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác của người bản địa là lẽ đương nhiên. Chữ Quốc ngữ ra đời vào giữa thế kỷ XVII, hầu như chỉ lưu hành trong giáo hội Cơ đốc, để các linh mục tây phương tiếp cận với người bản xứ. Nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, họ có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán-Nôm thì ngay trong giới cầm quyền thuộc địa cũng có những phản ứng gay gắt. Họ đã hai lần tổ chức hội thảo nhưng vấn đề vẫn chưa được khai thông. Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa, đưa ra lời khuyến cáo: “Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao của Nho học – một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường, nếu ta làm mất đi trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội không?… Ta không nên phá hoại bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này… Nếu với sự độ lượng khoan dung, nước Pháp sẽ có thể được tôn trọng hơn, được qúy mến hơn khi họ biết đánh giá, biết nâng niu trân trọng những tài năng, những tác phẩm của người dân An Nam tại Đông Dương, biết cúi xuống thấp hơn một chút khi chào, cười với một ông thầy Đồ, chấp nhận mà không chút miệt thị, trên quan điểm thoáng mở có chọn lọc, trung thực, những thành tựu phát triển trí tuệ của họ”. Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ quốc ngữ gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Chữ Quốc ngữ được cởi trói và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự hưởng ứng mặn mà trong giới nho sỹ và giới bình dân.

Phải đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh quốc gia thì ý thức cần được khai thông trí tuệ mới trỗi dậy mạnh mẽ. Lời Cụ Hồ nói cả nước đồng tình: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu! Yếu thì đói nghèo và mất nước! Đói nghèo – Dốt nát và Kẻ xâm lăng đều là giặc! Sự thật đó hiển nhiên nhưng mấy ai đã nhận ra? Và diệt nó tới cùng không dễ! Chữ Quốc ngữ được mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả nước nên việc phổ cập rất nhanh. Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ lại được tổ chức tại Hà Nội. Chữ Quốc ngữ được nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy trong các trường từ mầm non đến đại học.

Song, hãy nhìn vào thành tựu của văn hóa Quốc ngữ và văn hóa chữ Nôm mà suy ngẫm. Một thứ thì dễ dụng và một thứ thì thâm trầm. Một đàng mở lòng ra đón gió bốn phương. Một đàng kín đáo khép mình biền ngẫu. Nhà Quốc ngữ tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: Kể những sách của những bậc tài nôm nước Nam để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là qúy, thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước không có văn.

Cho đến hôm nay, văn chương Quốc ngữ đủ loại và nhiều nhưng đã có sách nào hay, qúy sánh ngang bằng bậc cha ông? Nhìn vào các tác phẩm văn chương đang được người ta tung hứng mà lòng những thẹn với lòng! Có ai kịp suy nghĩ lại lời cảnh báo như là tiên tri của ông Pasquier ngày ấy: Hãy tìm cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi đã bị tàn phá! Chúng ta khỏi phải làm một việc như đã làm đối với Provence là: Vực dậy một nền văn học chết! Trong khi lại có người gọi là trí thức, mang dòng máu Lạc-Hồng, tri ân người theo ngoa ngôn của mấy ông thầy dòng: Khi cho Việt Nam các mẫu tự la-tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ! Cần biết rằng trên thế giới này có nhiều loại ký tự. Theo dòng tượng thanh như: La-tinh, Slavơ… Theo dòng tượng hình như: Ai-cập, Hán… Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa và chính trị. Đánh giá nền văn minh và tốc độ phát triển của một dân tộc không ai chỉ dựa vào ký tự.

Chúng tôi cùng nghĩ như bạn Trí Nhân: Cái xác chữ chẳng là gì. Cái thần của chữ mới làm nên văn hóa. Cái thần ấy gọi là hồn nước, tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người dân Đại Việt. Nhiệm vụ của những người cầm bút chân chính là dựng dậy tinh thần Đại Việt.

Trần Vân Hạc
(Bài đã đăng trên Tuần báo văn nghệ TP. HCM số 16 ngày 20.8.2009)

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2009

DÙ Ở ĐÂU VẪN PHẢI TÔN TRỌNG NHAU

TT - Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, tác giả nhiều bài viết sắc nét về văn hóa ứng xử của người Việt, lý giải hiện tượng người nói tiếng Anh được đối xử tốt hơn.

>> Nói tiếng Anh được đối xử tốt hơn: nhận xét chính xác!

Những ai có kinh nghiệm sống ở VN hẳn đoán ra ngay yếu tố nào đã khiến nhiều cửa hàng dịch vụ có sự biệt nhãn đối với người nói tiếng Anh như trong bài báo bạn Nguyễn Thân Hiệp (Tuổi Trẻ ngày 18-8-2009) đã nêu và các bạn khác (Tuổi Trẻ ngày 19-8) cũng chia sẻ - đó chính là sự vụ lợi.

Người nói tiếng Anh chắc chắn có nhiều tiền hơn, chi phí cho sinh hoạt hằng ngày lớn hơn và cũng dễ “boa” cho người phục vụ hơn... Tuy không ai tuyên bố song người ta ngầm thống nhất phong cho người nói tiếng Anh danh xưng “công dân loại một”, hoặc “thượng đế loại một”.

Dù ở đâu và thời nào thì cái tinh thần chi phối cách sống con người vẫn phải là tôn trọng nhau, sung sướng cảm thấy sự có mặt của nhau trong cuộc đời này và cùng hướng tới sự hoàn thiện trong lời nói cũng như hành động.

Đây không phải là chỗ bàn kỹ về thói vụ lợi, tôi chỉ muốn lưu ý lối nhìn thiển cận này hiện là yếu tố chi phối ứng xử của người mình, từ trong mối quan hệ riêng tư đến các việc lớn liên quan đến cả đời người như chọn ngành chọn nghề, chọn nơi làm việc và cả tình yêu, hạnh phúc nữa.

Có bạn sẽ hỏi thế trên máy bay các cô phục vụ thừa biết hành khách có mua bán gì đâu, nếu đối xử tốt cũng có hưởng lợi lộc gì ngay đâu, sao họ vẫn niềm nở lịch sự với người nói tiếng Anh và chỏng lỏn hoặc cáu gắt với các loại hành khách khác?

Đơn giản lắm, ở đây có sự chi phối của thói quen. Ứng xử của người ta không chỉ là theo sự quy định của tình huống mà là được hình thành từ hoạt động liên tục trong thời gian.

Vấn đề theo tôi không phải ở chỗ người phục vụ tử tế niềm nở với người nói tiếng Anh, mà ở chỗ hằng ngày chúng ta đối với nhau không ra sao và thường nghĩ về nhau quá tệ. Nếu bảo thói quen thì đây là một thói quen đã trở nên thuần thục, thế mới hại!

Đó là sự suồng sã thô lỗ tầm thường trong ăn nói đối xử.

Đó là sự thạo đời theo nghĩa xấu, nhìn đâu cũng thấy lừa dối hư hỏng nên không sao tìm được thái độ thân ái và sự tôn trọng nhau tối thiểu.

Đó là một lối sống bất chấp tình người, coi sự tự trọng là xa xỉ, chỉ cốt nhàn thân và bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu chính đáng.

Một bạn đọc đã viết “hay là người ta nghĩ dân VN rành nhau quá nên không cần màu mè chi cho mệt?”.

Quả có thế thật, từ xưa đã thế và nay càng thế.

Những ai từng học qua bậc phổ thông thường được học về ca dao tục ngữ và hẳn ghi nhớ trong đầu những ý tưởng sâu sắc của dân gian. Tuy nhiên, chúng ta chỉ được nghe giảng và bảo là phải nhập tâm những Anh em như thể chân tay, Lá lành đùm lá rách, Bầu ơi thương lấy bí cùng, nhưng lại ít biết những Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại, Quen thì lèn cho đau, Anh em nắm nem ba đồng, muốn ăn thì trả sáu đồng mà ăn.

Trong thái độ đối xử với nhau dân mình từ xưa vẫn có lối quy nguyên nhân mọi bất hạnh của mình vào sự có mặt của người bên cạnh, và “đi guốc vào bụng nhau” bằng khái quát “bụng ai cũng thối hết”.

Thời hiện đại mở ra cho con người một trường hoạt động rộng rãi hơn, nhưng cuộc mưu sinh lại tàn bạo hơn và tâm hồn con người càng trở nên cằn cỗi hơn - theo sự đọc được của tôi thì đây là xu thế mà các nhà văn ở nhiều nước đã nêu ra và ở ta sau những năm chiến tranh khốc liệt lại càng thấy rõ.

Ai cũng thô lỗ thì mình thô lỗ một chút có sao! Lịch sự tử tế có lợi gì đâu, cốt vài chiêu nói dối là qua hết mọi chuyện... Người ta nghĩ thế và bỏ mặc mình làm tù binh cho những thói xấu.

Là một người thuộc về thế hệ cũ, tôi thường nhớ lại thời chúng tôi mới lớn lên với cảm tưởng sao mà lúc đó đời sống thiêng liêng lạ. May được bộ quần áo nhận ra công lao của bao người, mua được quyển sách mới thấy sao có người tài thế, viết ra được những quyển sách giá trị thế. Chẳng những các thầy giáo đối với bọn tôi là những ông thánh mà ngay trong gia đình, bố mẹ đối với bọn tôi cũng là cái gì cao vời. Mỗi lời song thân khuyên nhủ là kỷ niệm sâu sắc, bọn tôi nhớ từng lời dạy bảo chứ không có cái cảnh bố mẹ muốn nói mà con cái lại “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” bỏ đi chơi như thời nay.

Những nhận xét mà bạn Nguyễn Thân Hiệp và các bạn khác nêu trên Tuổi Trẻ mấy ngày qua là chính xác. Tôi không làm việc bào chữa, tôi chỉ muốn nói tâm trạng của nhiều người chúng tôi, như một câu trong Truyện Kiều: rằng quen mất nết đi rồi, biết mà lại bỏ qua, không chịu sửa.

Trong hoàn cảnh nan giải ấy, những cuộc tiếp xúc với các bạn ở xa về và những người nước ngoài khác là dịp tốt để một số chúng tôi thức tỉnh và trở về với tinh thần tốt đẹp của truyền thống.

Vương Trí Nhàn

(Theo Tuoitreonline)

Thứ Hai, 10 tháng 8, 2009

ĐẠI ĐỊA MẠCH QUỐC GIA

(TuanVietNam) - Những tìm hiểu của KTS Trần Thanh Vân về đại địa mạch quốc gia.


Chuyện 700 năm trước

Trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.

Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng.

Võ đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau:

Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận
Người giỏi bày trận thì không cần đánh
Người giỏi đánh thì không thua
Người khéo thua thì không chết

Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã “đẩy” con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để tránh hậu hoạ.

Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nhìn ra Bái Tử Long.

Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng ta?

Đền Cửa Ông không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long

Khi bí mật không còn là bí mật

Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m).

Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta.

Sơ đồ đại địa mạch


Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước.

Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả.

Cái chính là “thiên hạ” thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không?

Nhìn vào sơ đồ “vi địa mạch”

Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m).

Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu…

Thế nhưng các dãy núi chỉ “chầu” nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã “tụ” lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã “mọc” lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km.

Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ.

Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc.

Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288.

Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ?

Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia.

Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng.

Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne?

Cảng Vân Đồn

Am Mỵ Châu thờ ai?

Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau.

Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta.

Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi:

- Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không?

- Dạ không

Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa.

Xưa kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.”

- Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không?

- Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu hiệu “bài đế phản phong” để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu vật trong tay.

- Vậy làm cách nào để khắc phục?

- Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không?

- Có ạ, có ạ!

- Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người.

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán.

Ông cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!

Trần Thanh Vân

(Theo TuanVietNam)

Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2009

VĂN HÓA LÀ SỐNG, VUN ĐẮP VÀ TÔN VINH


Ấy vậy mà, nền tảng của “văn hóa làng” đã từng bị phá phách trong “cải cách ruộng đất” khi đình chùa miếu mạo biến thành kho hợp tác hay nơi chứa phân, khi các giá trị văn hoa tiềm tàng trong một số thiết chế và phong tục tập quán, trong các lễ hội, các sinh hoạt tâm linh bị phôi pha, bị vùi dập của một thời nay đang cố phục dựng lại.

V.Hugo viết trong “Những người khốn khổ”: “…Cái thứ cát ô uế mà bạn xéo dưới chân, hãy ném nó vào lò nấu, hãy để nó chảy ra, hãy để nó sôi lên, nó sẽ thành pha lê rực rỡ. Chính nhờ ánh pha lê ấy mà Galilê và Niutơn phát hiện những vì sao”. Phải chăng chuyện “hãy”mà nhà đại văn hào Pháp nói chính là hành động văn hóa, là văn hóa. Khi con người xác lập một mối quan hệ với tự nhiên để đem lại một cái gì đó mà trong tự nhiên nguyên thủy không có, cái đó là văn hóa. Và nói cho cùng, quan hệ giữa con người với tự nhiên cũng là quan hệ xã hội, là quan hệ giữa người với người trong mối tương tác của người với tự nhiên.Văn hóa được hình thành từ đó.

Trong “Sáng thế ký” có chuyện Adam và Eve sau khi ăn trái cấm thì bỗng nhiên phát hiện ra sự trần truồng của mình, cảm giác xấu hổ xuất hiện vả cả hai đều bứt chiếc lá vả để che đi bộ phận sinh dục. Chiếc lá vả ấy, theo Franz Werfel, một nhà văn Đức, là “tài liệu văn hóa đầu tiên của loài người!”. Không là chiếc lá vả đang nằm trên cây, mà là chiếc lá vả được con người sử dụng để biểu thị nhận thức và cảm xúc của mình, là biểu tượng của con người tự ý thức được về mình. Cái cảm giác “biết xấu hổ” là một thuộc tính người. “Con mắt trở thành con mắt người, cũng như đối tượng của con mắt trở thành đối tượng của xã hội, của con người, do con người tạo ra vì con người”, đó là sự diễn giải rất sâu sắc của C. Mác trong Bản thảo Kinh tế-Triết học năm 1844 . Vì thế, theo ông, “toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con người, cho nên người đó chứng minh một cách rõ ràng không thể bác bỏ được sự sáng tạo ra bản thân mình bởi chính mình, quá trình phát sinh của mình”.

Nói văn hóa là nói đến con người và bởi vậy, nói con người là nói đến văn hóa. Vì thế, ý nghĩa đầu tiên của văn hóa theo gốc Lat- inh thường được truyền đạt ở phương Tây mà chỉ hiểu theo nghĩa là “gieo trồng” trong thì nội hàm của nó đã bị thu hẹp đi rất nhiều (culture theo cùng cách viết chỉ có phát âm khác trong tiếng Anh và tiếng Pháp). Đó không phải gốc nghĩa của văn hóa vốn hay hơn và rộng hơn, xuất xứ từ tiếng La tinh cổ là colore, có nghĩa là sống, là vun đắp,tôn vinh.

Ông cha ta từng hết sức coi trọng sự vun đắp và tôn vinh ấy trong đời sống con người, đời sống dân tộc. Nguyễn Văn Siêu cùng thời với Cao Bá quát thế kỷ XIX từng căn dặn: “Trồng cây một bên thì mở rộng cho hàng trăm mẫu, một bên thì vun cho cây nửa sọt đất, hôm nay uốn cái cành, ngày mai tỉa cái lá… Tô sức ở bên ngoài thì bên trong tàn tạ. Vun đắp ở bên trong thì bên ngoài tốt tươi”! Lại nói: “Thăm dò cái gốc của nó, lại phải tưới tắm cho cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải buông lơi cái dòng của nó...”.

Gieo trồng, vun đắp văn hóa là sự dày công của lịch sử đâu phải một sớm một chiều. Nhưng làm suy thoái và hủy hoại nó thì chẳng mấy chốc. Danh sĩ đời Hậu Lê thế kỷ XVIII Vũ Khâm Lân từng cảnh báo về một thứ văn chương ủy mị, xa rời cuộc sống mà “kẻ trên thì dạy nó, kẻ dưới thì học nó, đua nhau theo đòi cái ngọn của từ chương, tỉa tách chạm trổ hết mực xa hoa, cỏ biếc trăng thanh thực là tinh xảo. Nhưng tìm xem có điều gì quan hệ tới quốc kế dân sinh thì tuyệt nhiên vắng bóng. Lề thói thì ưa chuộng sự lả lướt, dần dần đi tới mất nước, mà kẻ sĩ chuộng nghĩa tứ tiết cũng chẳng thấy nhiều”. Đấy là chưa nói đến mưu đồ đồng hóa nhằm hủy hoại tận diệt văn hóa dân tộc của các thế lực ngoại xâm theo kiểu “... Một khi binh lính vào nước Nam… hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến những loại ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ nhỏ, loại sách có câu “thượng đại nhân, khâu ất kỷ”... một mảnh, một chữ đều phải đốt hết... Khắp trong nước, phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều gìn giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dung thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn…”. Đó là sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi tướng viễn chinh Chu Năng ngày 21-8-1406!

Dòng chảy lịch sử là bất tận, nó tạo nên sức mạnh bất diệt của một dân tộc. Thế hệ trẻ Việt Nam phải được hiểu kỹ về dòng chảy bất tận đó phải được tắm mình vào trong dòng chảy bất tận đó đề tự hào về ông cha mình đã bao đời vun đắp nên một nền văn hóa dân tộc, một bản lĩnh văn hóa độc đáo, cội nguồn của sức mạnh Việt Nam để trao lại cho thế hệ hôm nay gìn giữ và phát triển. Hơn lúc nào hết khi mà tiến trình hội nhập và phát triển đang đi vào chiều sâu, thì cùng với những phấn đấu vực dậy nền kinh tế đang bị tác động dữ dội của cuộc khủng hoảng toàn cầu làm trầm trọng thêm những yếu kém tích tụ từ trong bản thân nền kinh tế của ta, thì nhìn cho rõ, cho sâu sự xuống cấp của văn hóa còn khó hơn gấp bội. Chống sự suy thoái và văn hóa còn khó hơn chống suy thoái về kinh tế nhiều. Phải chăng cùng với “kích cầu” để chống suy thoái kinh tế, phải “kích cầu” để chống sự suy thoái kinh tế, phải “kích cầu” chống sự suy thoái về văn hóa?

Bởi lẽ, chính văn hóa mới là động lựcsức mạnh của phát triển. Vì vậy, phải biết nối kết những điểm gặp gỡ, những tọa độ mà ở đấy, trí tuệ của ông cha hội tụ với trí tuệ của thế hệ nối tiếp trong các nguồn mạch văn hóa. Văn hóa không phải là một hệ thống đóng kín những giá trị loại biệt mà là một tổng hợp đang phát triển của các thành tựu vật chất và tinh thần của một dân tộc, trong đó nổi bật nhất là giá trịhệ thống giá trị là cái cốt lõi của văn hóa. Chất nhân văn, tính quật khởi, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong hệ thống giá trị của người Việt Nam qua mọi thời đại là cái tạo dựng nên bản sắc văn hóa Việt Nam, vun đắp nên giá trị Phổ quát của văn hóa Việt Nam. Cái giá trị phổ quát ấy nuôi dưỡng đời sống tinh thần của người Việt Nam qua mọi biến thiên của lịch sử.

Thật đáng lo ngại khi nghiêm khắc nhìn sâu vào đời sống tinh thần của xã hội ta hiện nay thì dường như đang có sự đứt gãy văn hóa (văn hóa theo nghĩa rộng như đã đề cập ở trên). Sự đứt gãy ấy thể hiện trên nhiều lĩnh vực, xin chỉ nêu lên ba biểu hiện nổi cộm đáng suy nghĩ nhất:

1. Trước hết là nguy cơ băng hoại nền văn hóa làng, cái gốc nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam, góp phần hun đúc nên bản sắc văn hóa dân tộc. Không có cái gốc đó, không thể có bề dày văn hóa hôm nay. Đương nhiên, cũng trong văn hóa làng đã trầm tích những nét tiêu cực của con người Việt Nam nông dân, lối suy nghĩ vụn vặt, tản mạn tự trói mình trong lũy tre làng của lối sống tự cấp tự túc không sao chuyển nổi sang kinh tế hàng hóa để phát triển bứt lên. Nhưng văn hóa làng không chỉ có thể. Càng đi vào hiện đại,càng tiến sâu vào quá trình hội nhập quốc tế, càng phải biết gìn giữ những tinh hoa, vun đắp cho cái gốc ấy. Đã mất gốc thì làm sao phát triển, cho dù kinh tế có tăng trưởng bao nhiêu mà văn hóa lại lai căng,mất gốc thì sự tăng trưởng đó chẳng có được bao nhiêu ý nghĩa. Ấy thế mà, “văn hóa làng” đang đứng trước một thách đố còn quyết liệt của làn sóng công nghiệp hóa và đô thị hóa. Phải chăng, cái tất yếu nghiệt ngã của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa là một định mệnh không thể tránh được? Có lẽ không nhất thiết phải vậy nếu chúng ta biết tỉnh táo tìm ra một cách để phù hợp với thực tế đất nước và đặc điểm văn hóa Việt Nam để thực hiện quá trình công nghiệp hóa một cách sáng tạo mà không chỉ sao chép của người khác.

Để thực hiện quá trình ấy,phải huy động ở mức cao nhất sức mạnh văn hóa, xác định rõ văn hóa là mục tiêu vừa là động lực của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp phát triển đất nước. Khi chúng ta nói bản sắc dân tộc, nói đến sự “đậm đà bản sắc” ấy là muốn nói đến cái gì, phải chăng là nói đến cái “hồn dân tộc” tiềm ẩn trong di sản văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của đời sống Việt Nam? Phải chăng, câu thơ từng làm lay động lòng người “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Màu dân tộc.sáng bừng trên giấy điệp” chính là do đã phần nào khơi đúng nguồn mạch văn hóa dân tộc được nuôi lưỡng trong văn hóa dân gian để từ đó mà được chưng cất, nâng cao lên trong văn hóa bác học. Trong cái nguồn mạch văn hóa dân gian ấy, kể cả trong những huyền thoại, truyện cổ tích đều ẩn chứa cái hồn dân tộc trong cái hình hài của “màu dân tộc” ấy.

Và rồi huyền thoại “Thánh Gióng” là gì, nếu không phải là hình tượng thăng hoa của hiện thực đất nước: Ngay khi mới nằm trong nôi đã nghe trống vó ngựa ngoại xâm, tuổi thơ Việt Nam phải vụt lớn nhanh lên và tạo được bản lĩnh đủ sức đánh giặc cứu làng, cứu nước. Những “lốt chân ngựa Thánh Gióng” vẫn còn đó trên cánh đồng vùng Kinh Bắc. Phải cảm nhận cho được cái “hồn dân tộc” vừa xa xôi trừu tượng, vừa gần gũi sâu lắng ấy, đặng lưu giữ và làm ấm sáng mãi niềm tin vào nguồn mạch vô tận của sức mạnh văn hóa dân tộc. Huyền thoại ấy, chính là tâm thức của dân tộc, là khát vọng sống, là ý chí Việt Nam, làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Mà nói thật gọn và đơn giản, bản sắc văn hóa Việt Nam là “văn hóa nhà làng nước”, trong đó văn hóa nhà, văn hóa làng và văn hóa nước gắn bó, tương tác với nhau như những phân hệ trong hệ thống làm nên tính độc đáo của văn hóa dân tộc.

Mà xem ra,bản sắc văn hóa dân tộc thường tiềm ẩn sâu kín ở chốn “thôn cùng xóm vắng , nơi Nguyễn Trãi mong “sao cho không có tiếng kêu than hờn giận oán sầu để giữ được cái gốc” của văn hóa. Cái gốc ấy nằm ở đâu nếu không từ “văn hóa làng”, từ một sự thật lịch sử: Khi nước mất thì làng vẫn còn, để rồi từ làng mà gây dựng lực lượng, lấy lại nước. Trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước, nhà và nước, xét đến cùng, cũng quy tụ ở làng.

Liệu có phải hồn dân tộc ẩn chứa tỏng hình hài văn hóa làng? Để ất mi đó là mất nguồn mạch sống của dân tộc. Khi tiến trình hội nhập đi vào chiều sâu, càng phải biết nuôi dưỡng cái nguồn mạch ấy để từ đó mà đến với thế giới.

Ấy vậy mà, nền tảng của “văn hóa làng” đã từng bị phá phách trong “cải cách ruộng đất” khi đình chùa miếu mạo biến thành kho hợp tác hay nơi chứa phân, khi các giá trị văn hoa tiềm tàng trong một số thiết chế và phong tục tập quán, trong các lễ hội, các sinh hoạt tâm linh bị phôi pha, bị vùi dập của một thời nay đang cố phục dựng lại. Cũng có cái làm được, cũng có cái trở thành pha tạp, lai căng cần phải có cách thanh lọc khi phục dựng, kế thừa và nâng cao trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa hôm nay. Điều đáng phải gióng tiếng chuông cảnh báo là, những tinh hoa của nền văn hóa làng ấy đang tiếp tục bị đập vỡ, bị băm vụn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề về một tầm nhìn văn hóa mà “Có nó thì sẽ có tất cả, thiếu nó thì cái còn lại còn gì là đáng giá” (Phạm Văn Đồng, “Văn hóa và đổi mới”).

Nếu không có một chuyển đổi cơ bản về nhận thức thì cùng với sự băng hoại của nền văn hóa làng, diện mạo của nông thôn nhiều nơi có thể diễn ra theo kịch bản xấu mà trong một báo cáo khoa học người ta đã gợi ra: Nông thôn sẽ là nơi không ai muốn ở, thanh niên người có học vấn chuyển ra sống và làm việc ở thành phố để có điều kiện phát triển, nông nghệp sẽ là ngành không ai muốn đầu tư, nông dân muốn thoát khỏi quê hương nghèo. khố. Các thế hệ tương lai sẽ bỏ rơi nông thôn. Sự đứt gãy này thật khủng kiếp vì nó không chỉ tác động đến nông thôn mà ảnh hưởng trực tiết đến đô thị.

2. Một biểu hiện khác lại được thể hiện ở bộ phận không nhỏ trí thức hiện nay mà xét đến cùng, nói đến trí thức là nói đến văn hóa nói đến người chuyển tải văn hóa.

Trong bài viết “Để có lớp trí thức xứng đáng”, giáo sư Hoàng Tụy đã phân tích về một bộ phận trí thức này do “… thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên trừ những người ý thức được điều đó còn số khá đông thường chỉ là những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời đó và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhãn quan rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành nghề hẹp của mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển chuyên môn và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề xã hội, văn hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của mình. Hầu như mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, ít khả năng và cũng không thích thích hợp tác với bạn bè, đồng nghiệp… ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn mệnh thời đại” của bộ phận trí thức đang thực hiện sứ mệnh trau dồi văn hóa, chuyền tải văn hóa!

3. Và biểu hiện thứ ba, cùng với sự thiếu hụt một văn hóa phổ quát tạo sự lạc hậu của hệ thống giáo dục, sự đứt gãy của văn hóa truyền thống và cùng với chúng là tấm gương xấu của một bộ phận trí thức vừa nêu cộng thêm với sự thoái hóa biến chất của một số không ít người có chức, có quyền đang tác động mạnh đến đời sống tinh thần của thế hệ trẻ. Đó là chất xúc tác làm cho một bộ phận đáng kể thanh thiếu niên đứng trước nguy cơ xuống cấp về đạo đức, xa rời các giá trị truyền thống của dân tộc. Nói đến tuổi trẻ là nói đến hoài bão, nói đến ước mơ và hành động, thế mà có một bộ phận không nhỏ những người trẻ tuổi, trong đó có những sinh viên, đang là lực lượng chủ lực sẽ bổ sung vào đội ngũ trí thức, lại thiếu những năng lực cần thiết để đương đầu với những biến động đầy phức tạp của xã hội hiện đại khi thiếu khả năng phê phán, yếu năng lực tư duy sáng tạo đề tìm ra con đường giải quyết các vấn đề của cuộc sống.

Và nói đến tuổi trẻ, không thể không nói đến thanh, thiếu niên nông thôn với cuộc sống của phần lớn làng quê, nơi kinh tế có phần nào cải thiện, nhưng lối sống chưa mấy đổi thay thì đời sống văn hóa hiện nay lại hết sức nghèo nàn lại đang hứng chịu những cặn bã của văn minh đô thị. Sẽ là ngớ ngẩn và bất cập khi cố cưỡng lại quá trình đô thị hóa để sợ rằng: “... em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” và rồi: “Van em em hãy giữ nguyên quê mùa... Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh”. Thế nhưng, thị hiếu thẩm mỹ đi liền với phong tục tập quán của gần hai phần ba dân số sống ở nông thôn sẽ ngỡ ngàng như thế nào khi được màn hình ti vi thường xuyên “tiếp sóng” những lượn lờ vòng eo và áo tắm ba mảnh thay cho “yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa” đã lùi vào dĩ vãng. Chuyện “lùi” cái ấy là đúng quy luật song vấn đề là cái thay thế nó là gì thì đúng là đang còn tự phải mang tính “tự biên, tự diễn” hết sức tùy tiện. Rõ ràng chuyện này thật đáng lo, mà trong chừng mực nào đó, đáng lo hơn cả chuyện suy thoái kinh tế. Vực dậy một nền văn hóa khó gấp bội phần vực dậy một nền kinh tế. Đừng quên rằng, văn hóa không phải là mỳ ăn liền, văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu. Việc ăn tươi, nuốt sống những sản phẩm văn hóa không tương thích với môi trường sống và phong tục tập quán chưa máy đổi thay sẽ gây độc hại nhiều hơn là thêm dưỡng chất.

Thế hệ trẻ hiện nay đang cần những dưỡng chất đến từ một nền văn hóa mà trong đó, những tinh boa của truyền thống dân tộc được thăng hoa trong quá trình chọn lựa và tiếp thu những thành tựu của văn hóa và văn minh của thời đại để tăng thêm sức đề kháng chống trả những cặn bã của nền văn minh ấy. Thế hệ trẻ nói chung đã vậy, thế hệ trẻ Thủ đô càng phải như vậy.

Nhân ngày đại lễ kỷ niệm “Nghìn Năm Thăng Long” đang đến rất gần, xin gióng lên tiếng chuông cảnh báo văn hóa, mong từ nguyệt san “Hà Nội Ngàn năm”, tiếng chuông cảnh báo văn hóa sẽ vang xa và có sức giục giã những quyết sách mang tầm chiến lược.

GS. Tương Lai

(Theo: Hà Nội ngàn năm)

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2009

THÓI HÁO DANH VÀ VĨ CUỒNG CỦA TRÍ THỨC

(TuanVietNam)- Thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu nhiều người đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới, bệnh lại trầm trọng hơn trong một bộ phận trí thức.

Lời TS: Trí thức là một thành phần quan trọng, đóng vai trò định hình tư tưởng, dẫn dắt xã hội. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, không phải toàn bộ nhưng ít nhất một bộ phận trong số họ có những nhược điểm cố hữu. Tuần Việt Nam xin giới thiệu một số bài viết của ông về chủ đề này với mục đích tự nhìn lại mình, phản tư để thấu hiểu và thay đổi chính mình.

Ảnh: share-book.com

Bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ... trong giới trí thức vừa được Đặng Hữu Phúc xem như một quốc nạn. Chỉ có thể chia sẻ với một khái quát như thế nếu người ta nhận ra những gì đứng đằng sau cái căn bệnh có vẻ dễ thương đó là sự liên đới của nhiều “chứng nan y“ cùng là sự tha hoá của giới trí thức cũng như của nhiều lớp người khác.

Bài viết Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị gợi tôi nhớ tới một câu chuyện trong sử cũ.

Nhìn người bằng... chức danh

Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung Quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.

Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của tiên sinh nhấn mạnh về "kinh bang tế thế". Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương... Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì” .(1)

Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của bộ máy đó là như thế nào.

Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khấu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn ?“.

Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thuỷ tới câu chuỵên về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cống sĩ đã bĩu môi chê bai - giữa người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý đến thế!

Từ háo danh tới vĩ cuồng

Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ - tức đám người háo danh - trò chuyện với nhau. Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.

Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.

Thế mà cứ động phát biểu thì từ miệng anh A, vang lên nào là “như giáo sư B đã nói” (gọi đầy đủ cả tên họ), nào là “tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày“ (Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn). Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.

Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu. Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.

Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.

Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.

Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.

Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ (2) gọi là bệnh vĩ cuồng ( me’ganomanie).

Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “sáng kiến phát minh“ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới, ví dụ một người đề nghị ta cần mượn của Liên Xô (hồi đó còn Liên xô ) tên lửa vượt đại châu để bắn vào bắc cực khiến trục trái đất lệch thêm mười độ sao cho VN thay đổi vĩ độ và trở thành một nước ôn đới (vì tác giả “đề án” này tin rằng chỉ có khí hậu ôn đới mới thích hợp với một tốc độ vũ bão, giúp nước ta đuổi kịp và vượt xa các nước tiên tiến trên thế giới).

Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.

Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.

Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.

Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, của những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố, đế trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng thì may ra mới có cơ hội chữa chạy hay ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.

  • Vương Trí Nhàn

Ghi chú:

(1) Chu Thuấn Thuỷ Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Vĩnh Sính dịch và chú thích, Hội khoa học lịch sử Việt Nam 1999, tr.11
(2) Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc -- Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,2000, tr.82-87

Nguồn: http://tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/7621/index.aspx