Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2008

VỤ "CẦU NGUYỆN" ĐÒI ĐẤT TÒA KHÂM SỨ: SỰ THẬT VỀ CHÙA BÁO THIÊN


Đầu năm 2008, trong tình hình sôi động của sự cố “Tòa Khâm sứ và Chùa Báo Thiên”, nhiều nhà nghiên cứu đã viết về lịch sử của quần thể ngôi chùa và bảo tháp được mênh danh là một trong Tứ Đại khí của nước ta. Một trong những bài viết được nhiều người quan tâm là của tác giả Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, mà cùng với các cơ quan truyền thông khác, Giao Điểm đã phổ biến vào ngày 3/2/2008 dưới tựa đề “Lịch sử Phố Nhà Chung”:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=2013

Ngày 18/5/2008 vừa qua, Giao Điểm nhận được bài viết mới của ông Lê Quang Vịnh nhằm cập nhật và đào sâu thêm những thông tin lịch sử chung quanh các biến cố quan hệ đến kiến trúc nầy. Chúng tôi xin đăng tải bài cập nhật đó dưới đây và xin trân trọng ghi nhận phương pháp làm việc cẩn trọng của ông cũng như tấm lòng của tác giả Lê Quang Vịnh đối với di tích văn hóa lịch sử nầy - Giao Điểm

LỊCH SỬ TANG THƯƠNG VỀ
CHÙA BÁO THIÊN Ở HÀ NỘI XƯA

Chùa Báo Thiên đau nỗi đau của nước
Đất hằn sâu gót giày quân xâm lược

Lê Quang Vịnh

Ở Hà Nội , phía Tây hồ Hoàn Kiếm, dọc theo trục Bắc Nam, có 1 đường phố ngắn (chỉ 300m) phía Bắc tiếp nối với phố Lý Quốc Sư, phía Nam đụng với phố Trường Thi, nằm gọn trong phường Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm, mang tên Phố Nhà Chung, thời Pháp thuộc gọi là Rue de la Mission (phố Hội Truyền Giáo hoặc phố Hội Thừa Sai). Trên đường phố này xúm xít những cơ sở Công giáo như Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội , trụ sở của Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam và mấy cơ sở bên “lương” như Câu lạc bộ Thanh thiếu niên[1] Hoàn Kiếm, Trung tâm ngoại ngữ Đại học Sư phạm… tiếp giáp với 2 ngôi chùa cổ danh tiếng trong sử sách vẫn ghi là chùa Bà Đá[2] và “Đền” Lý Quốc Sư[3].

Thời tôi còn công tác ở Ban Tôn giáo Chính phủ , tôi đã nhiều lần đến thăm chùa và nghe vị sư trụ trì[4] chùa Lý Quốc Sư kể chuyện, đưa cho đọc những tư liệu quí giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chứng tích rằng toàn bộ khu đất ấy, ngày nay gọi là Phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa là một ngôi chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta.

Chùa đó có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vòi vọi (12 tầng), cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt nước hồ[5] Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, gọi tắt là Báo Thiên Tháp[6].

Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056[7] (đời vua Lý Thánh Tông), đúc 1 quả đại hồng chung nặng đến 1 vạn 2 ngàn cân (7260 kg). Báo Thiên Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng 1 năm sau khi xây dựng xong chùa. Trong chùa và tháp có rất nhiều vật hạng bằng đồng như tượng Phật, thiền trượng , giới đao hộ pháp nhà Phật…cho nên năm 1426, khi quân Minh xâm lược bị vây khổn trong thành Đông Quan (tức Hà Nội), chúng cố thủ để chờ quân tiếp viện, đã đến chùa cướp phá tàn bạo: tốc chóp tháp đồng, nấu chảy đại hồng chung và tất cả những gì bằng đồng, bằng kim loại để làm vũ khí (đúc súng) chống lại quân Việt Nam của Lê Lợi-Nguyễn Trãi mãi cho đến khi biết rõ là các đạo quân tiếp viện (Liễu Thăng, Mộc Thạnh) đều đã bị đánh tan cả, mới chịu đầu hàng. Tuy nhiên, nhà Lê không để chùa bị bỏ hoang, cho trùng tu và đại trùng tu nhiều lần nên ngôi chùa vẫn giữ vị thế bậc nhất nước ta.

Trong chùa Lý Quốc Sư ngày nay vẫn còn lưu giữ bản gấm thêu sắc tứ của đời Cảnh Hưng (tức vua Lê Hiển Tông 1740-1786) về chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự. Trên nền tháp bị phá, đã được tôn cao bằng 1 đàn tràng cũng gần gần nơi bây giờ là nhà thờ lớn.

Về lý do diễn biến đổi thay từ chùa và tháp Báo Thiên, 1 trong “Tứ đại khí” hay “Tứ bảo khí” của Việt Nam cổ (tạm dịch là 4 công trình to lớn và quí báu nhất nước Nam ta) thành ra Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam và các tu viện, trường học Công giáo xung quanh đó ngày nay, thì dò theo các quyển sách lịch sử đáng tin cậy như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hà Thành thất thủ chính khí ca (khuyết danh), bản trường ca về việc Hà Nội bị Pháp đánh chiếm lần thứ 2 (Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, NXB Đà Nẵng 2001, trang 54-66), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn văn Tân, NXB Văn hóa Thông tin , Hà Nội 1998; Từ điển đường phố Hà Nội , NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2000; Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm-Công giáo và Dân tộc , xuân 1996, Thành phố Hồ Chí Minh ; Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long-NXB Văn hóa thông tin-Thời báo kinh tế Việt Nam, tập I, 2007… tôi suy ra những kết luận chuẩn xác như sau:

Số là sau khi được triều đình Huế chính thức nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường ) theo hòa ước 1862 (Nhâm Tuất), đến 1867 (Đinh Mão) quân Pháp lại chiếm luôn 1 cách dễ dàng cả 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên) nữa, soái phủ Sài-gòn có ý định chiếm nốt xứ Bắc Kỳ, để thiết lập vững chắc nền đô hộ của Pháp ở Viễn Đông.

Đô đốc Dupré viết thư sang Pháp:
“Xứ Bắc Kỳ rất giàu và nối liền với nước Tàu. Đó là nơi để các tỉnh phì nhiêu Tây Nam xứ Trung Hoa tải sản vật sang cho ta. Việc chiếm cứ xứ này là vấn đề sinh tồn cho tương lai cuộc đô hộ của ta ở Viễn Đông” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 117).

Pháp sử dụng hòa ước 1862 như 1 công cụ “tàm thực” (tằm ăn dâu) thần hiệu: “… Đạo Thiên Chúa được tự do truyền giáo … Người Pháp và người Tây Ban Nha được quyền mở 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên và tự do đi lại buôn bán trong nước ta…” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 87)
Năm 1871, có 1 thương gia người Pháp tên là Jean Dupuis đi tìm 1 con đường sông ở Bắc Kỳ giao thông với tỉnh Vân Nam của Tàu. J.Dupuis mộ lính Tàu và tập họp 1 băng đầu trộm đuôi cướp về đóng tại Hà Nội .

Quan ta không có quyền đuổi họ đi, bèn tâu về triều, xin phản kháng với đô đốc thống lĩnh xứ Nam Kỳ. Nhưng đô đốc Dupré chỉ 1 mực bênh vực Dupuis.
Tháng 5-1873, quan ta bắt giam đồ đảng người Nam và người Tàu của Dupuis, thì Dupuis bảo sẽ dùng vũ lực phá nhà ngục, đánh tháo cho những kẻ bị bắt giam. Dupuis lại đòi mua muối, củi để tàu của mình dùng, nhưng quan ta không chịu, khiến tình hình càng hết sức căng thẳng.

Thuở ấy, Nguyễn Tri Phương được vua Tự Đức bổ nhiệm chức Bắc Kỳ Khâm mạng tuyền sát đổng sức đại thần (kinh lược sứ Bắc Kỳ), điều quân từ Sơn Tây về giữ thành Hà Nội.

Đáp lại thư phản kháng của triều đình Huế, soái phủ Sài-gòn còn giúp thêm cho J.Dupuis 3 vạn quan tiền.

Ngày 27-7-1873, Dupré đánh điện tín về bộ Hải quân:
“Xứ Bắc Kỳ đã mở cửa thông thương nhờ công của Dupuis. Việc này có ảnh hưởng lớn đến thương mại của Anh, Đức, Mỹ. Ta cần phải chiếm xứ này trước, đừng để bọn giặc Tàu hay người Tây phương khác chiếm. Như thế ta sẽ đem lại cho nước Pháp 1 con đường buôn bán độc quyền. Tôi không xin thêm viện binh. Tôi sẽ đem quân lực sẵn có đi đánh. Sự thành công rất chắc chắn” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 119).

Soái phủ Sài-gòn truyền lệnh cho trung tá[8] Francis Garnier mang 1 tiểu đội chiến thuyền ra Bắc Hà trước để điều tra vụ Dupuis, sau buộc triều đình Huế mở rộng xứ Bắc Kỳ cho người Pháp buôn bán. Ngày 17-9-1873, F.Garnier rời bến Sài-gòn và đến ngày 5-11, đem quân đến Hà Nội .

F.Garnier vừa mới gặp Nguyễn Tri Phương đã khiêu khích rất hách dịch, đòi đóng quân ngay trong hoàng thành, bắt buộc các địa phương phải để cho người Pháp thông thương trên toàn cõi Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Tri Phương cự tuyệt, lý do là vì chưa có lệnh triều đình. Thực sự Francis Garnier khiêu khích để châm ngòi cuộc chiến tranh:
“Tôi nhất định đánh. Tôi sẽ đem 180 quân bản bộ hạ thành Hà Nội và bắt Nguyễn Tri Phương giải về Nam, làm tù binh” (Thư của Francis Garnier gởi về Soái phủ Sài-gòn cho Đô đốc Dupré ngày 10-11-1873).

Ngày 20-11-1873, đúng 6h sáng, Francis Garnier truyền lệnh hạ thành Hà Nội . Đại bác ta trên thành bắn ra không có tác dụng gì cả, đạn lướt qua đầu quân Pháp và rớt xuống cả mặt đất phía sau. Quân ta trong lúc hoảng hốt, quăng xuống vô số đá to, đá nhỏ mà chẳng trúng tên quân Pháp nào. Một đại bác của Pháp bắn vỡ cửa Đông, quân Pháp ào tới, ập vào thành. Đến 7h, cờ Pháp bay trên vọng lâu trung ương thành Hà Nội . Phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương nặng ở đùi, bị Francis Garnier bắt được . Francis Garnier phái các bác sĩ đến băng bó vết thương, đổ cháo và thuốc vào miệng ông để ông mau phục sức. Nhưng Nguyễn Tri Phương dứt cả băng bó, phun cháo và thuốc ra, nhất quyết tuyệt thực cho đến chết. Francis Garnier đem thông ngôn[9] đến ngồi bên giường ôn tồn an ủi. Nguyễn Tri Phương thản nhiên đáp:
“Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang123)
Ngày 20-12-1873, Nguyễn Tri Phương[10] trút hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi (1799-1873).

Francis Garnier lúc ấy đóng quân ở Trường Thi[11] đem toàn bộ ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự ở gần đó giao cho người thông ngôn của mình là Giám Mục Puginier làm nhà ở và nơi làm việc tạm thời. Giám Mục cho cất thêm mấy gian nhà gỗ trong khuôn viên chùa[12], còn Tòa Giám Mục thì vẫn đặt tại Sở Kiện. Trong mấy năm sau đó, tình trạng này vẫn không thay đổi vì chỉ đến ngày 21-12-1873 thì Francis Garnier bị quân Cờ Đen phục kích giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế cai quản theo hòa ước 1874 (Giáp Tuất).

Mãi cho đến 9 năm sau, Soái phủ Sài-gòn mới cử Henri Riviere[13] ra đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882-Nhâm Ngọ). Lần này thì Tổng đốc Hà Ninh[14] là Hoàng Diệu (trọng trấn từ 1879) quá phẩn uất trước cảnh vua và triều đình bạc nhược chủ hòa[15], không quyết tâm phòng bị, còn các quan chức kế cận mình thì hèn nhát bỏ trốn trước giờ lâm trận, thậm chí phản bội đầu hàng, cho nên sau khi viết xong tờ di biểu, ông đã treo cổ tự tử trên cây ổi ở miếu Công Thần trong Hành Cung Kính Thiên.

Sau khi chiếm được Hà Nội, Henri Riviere sai phá hủy các cổng thành và nhiều đoạn tường thành, vần hết đại bác trên thành ném xuống hào. Các chùa miếu quanh thành đều bị phá phách, xô sập tất cả, 1 mặt để lấy gỗ gạch làm công sự[16] , mặt khác là để thực hiện chủ trương triệt hạ nền văn hóa cổ truyền bản địa[17] và độc tôn Thiên Chúa giáo mà thực dân Pháp vẫn được Vatican tuyên dương là Trưởng Nữ của Giáo hội. Từ ấy, Báo Thiên Tự biến mất trên bản đồ Hà Nội .

Năm 1884, hàng ước Patenotre được ký kết, triều đình Nguyễn chấp nhận Pháp bảo hộ và chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là xứ thuộc địa (colonie) của Pháp, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ (protectorat) của Pháp, Trung Kỳ được gọi là Đế chế An Nam (Empire d'An Nam) – sự thật thì cả ba kỳ đều chung 1 chế độ lệ thuộc, ngay trong đế chế An Nam thì vua mặc dù có những vị vua yêu nước muốn khôi phục độc lập chủ quyền cho Dân tộc , nhưng cuối cùng phải bị bắt bị đày, bởi “vua thì còn đó, nước thì không “, triều đình quan lại thì mặc dù cũng có những ông quan tận trung báo quốc nhưng cuối cùng phải bị giết bị tù bởi triều đình quan lại rút cuộc chỉ là con rối trong tay thực dân Pháp mà thôi, Giám Mục Puginier mới cho xây dựng lại bằng những vật liệu kiên cố Nhà Thờ Lớn và các tòa nhà khác của nhà chung rồi dời Tòa Giám mục[18] về đây.

Năm 1925, Tòa Thánh Vatican lập Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Việt Nam (Delegue’ Apostolique19 F, Apostolic Delegate[19] E) và trụ sở ban đầu đặt tại Huế, đến năm 1951 mới dời ra Hà Nội và Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh được xây dựng ngay trên khu đất Phố Nhà Chung này. Đến năm 1957, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền miền Nam nhất định không chịu hiệp thương tổng tuyển cử, Tòa Thánh Vatican thì nhất quyết không thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên chuyển Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh vào Nam (Sài-gòn) là nơi mà Tòa Thánh công nhận là “đại diện duy nhất” (!) cho nước Việt Nam…
Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

Tái bút: Noel[20] 2007, hàng trăm thanh niên Công giáo Hà Nội với danh nghĩa là “theo giáo hội cầu nguyện hòa bình” đã xông vào địa chỉ 42 phố Nhà Chung đang là trụ sở của Phòng Văn hóa Thông tin , Nhà Văn hóa & Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm, phát hàng vạn tờ truyền đơn đòi Nhà nước phải trả lại cho Tòa Tổng Giám Mục khu đất ở địa chỉ này mà họ cho là của Tòa Khâm sứ (cũ). Họ trưng ra 1 bức thư của người đại diện Tòa Thánh Vatican khi rời Hà Nội vào Sài-gòn năm 1959 cám ơn Tòa Giám Mục Hà Nội đã cho mượn đất để xây dựng Tòa Khâm sứ (cũ). Cuối tháng 1-2008, Tòa Tổng GM Hà Nội chính thức gởi đơn lên Thủ tướng Chính phủ xin lại lô đất số 42 phố Nhà Chung để làm chỗ họp của HĐGMCGVN.
Đến giữa tháng 2-2008, Ban Văn Hóa trung ương (thuộc Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ) chính thức gởi đơn lên Thủ tướng Chính phủ khẳng định lô đất gọi là của Tòa Khâm sứ (cũ) và kể luôn cả khu đất của Nhà Thờ Lớn Hà Nội đều thuộc khuôn viên chùa Báo Thiên, di sản văn hóa lớn của Phật giáo Việt Nam và như thế lẽ ra là nên được giao về cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Tình hình tranh chấp càng lúc càng trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi không tham gia vào cuộc tranh chấp phức tạp này. Tuy nhiên chúng tôi không thể không ghi lại lịch sử cụ thể của khu đất bao gồm cả địa chỉ 42, 40 phố Nhà Chung và toàn bộ phố Nhà Chung (hiện nay) rộng đến hàng ngàn m2 đất đều nằm trong khuôn viên của ngôi chùa cổ gần cả nghìn năm và đồ sộ nguy nga bậc nhất nước Nam xưa: Chùa Báo Thiên và Tháp Báo Thiên đã là hình ảnh đau thương của dân tộc ta dưới gót giày quân xâm lược: quân xâm lược Tàu và quân xâm lược Pháp.

Trước hết cần nói rõ về Tháp Báo Thiên.
Tháp có tên gọi đầy đủ là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, xây dựng năm 1057 (Quí Dậu). Tháp cao 12 tầng, không biết nó cao bao nhiêu met bởi trong lịch sử chỉ ghi là vài chục trượng[21] , không rõ là 25, 30, 35 trượng (tức 83m, 100m, 117m), chỉ biết nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần có bài thơ về tháp như sau:
Trấn áp Đông Tây, củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp, độc nguy nguy
Sơn hà bất động, kình thiên trụ
Kim cổ nan ma, lập địa chùy
Dịch nghĩa: Trấn áp Đông Tây, giữ vững kinh kỳ / Ngọn tháp vượt hẳn lên giữa trời cao sừng sững / Chiếc cột chống trời đứng đó làm cho non sông yên ổn / Như mũi dùi trên đất xưa nay chẳng hề mòn.

Tháp bị hư hỏng như thế nào thì mỗi sách viết mỗi cách khác nhau:
- Theo” Sổ tay địa danh Việt Nam” của Đinh Xuân Vịnh (NXB Lao động Hà Nội 1996 ) tr 42 ghi rằng “…cao 12 tầng, là 1 trong An Nam tứ khí. Năm 1258 đời Trần Thánh Tông gió to đổ mất đỉnh tháp, năm 1322 đời Trần Minh Tông sét đánh đổ mất 2 tầng nữa, năm 1406, chỏm tháp Báo Thiên bị gãy. Năm 1884 bị bỏ hoang và đổ nát”.
- Theo sách “Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (NXB Hà Nội 1979) và sách “Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20” của Nguyễn văn Uẩn (NXB Hà Nội 1994) tập II, tr 543 thì ghi rằng “…Thời Minh thuộc, tướng giặc Vương Thông bị nghĩa quân Lam Sơn vây khốn trong thành Đông Quan, chúng đã phá các chùa chiền, vơ vét chuông khánh đồng để đúc binh khí chống lại quân ta. Tháp và chùa Báo Thiên bị phá hủy nặng nề và chuông Báo Thiên bị mất”.
- Tr 544 ghi thêm “Năm Giáp Dần 1434, vua Lê Thái Tông mở mang khu vực Hồ Gươm, sai thợ khéo dựng lại chùa Báo Thiên, còn ngôi tháp đổ không xây lại được nữa. Chỗ nền tháp cũ chỉ còn là 1 gò đất cao… thành nơi họp chợ của dân phường Báo Thiên, đôi khi dùng làm chỗ hành hình tội nhân”.

Như vậy có thể khẳng định tháp Báo Thiên chỉ tồn tại đến trước khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428). Nhưng vì sao mà tháp bị đổ thì vẫn còn là 1 nghi vấn vì Trần Quốc Vượng , Vũ Tuấn Sán, Nguyễn văn Uẩn cho rằng bị Vương Thông phá, còn Đinh Xuân Vịnh lại cho rằng bị gió to, sét đánh…
Truy lịch sử trước đời Lê, thì Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (NXB Văn hóa Thông tin 2004, tập II, tr 41) có ghi chuyện “Vương Thông nước Minh vì trận thua ở Tốt Động, quân khí gần hết, bèn phá chuông Qui Điền và đỉnh Phổ Minh (trong An Nam tứ khí) để làm súng đạn và ống phun lửa…”
Trận Tốt Động (chữ Tốt cũng đọc là Tụy, Toại) nổ ra ngày 7 và kết thúc ngày 10 tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) và sau đó Vương Thông thua chạy về cố thủ ở Đông Quan (Hà Nội ). Nhưng trong phần dịch chú, chuông Qui Điền được cho là của chùa Một Cột và đỉnh Phổ Minh thì lại cho là ở phủ Thiên Trường (Nam Định). Tôi thiết nghĩ là nhà dịch chú đã lầm lẫn, vì tháp Phổ Minh (cao 14 tầng) thờ vua Trần Nhân Tông và chùa Một Cột cách xa nhau hàng mấy trăm km đường bộ, hơn nữa sau trận Tốt Động, Vương Thông bị vây khổn ở Đông Quan, đâu còn cơ hội nào về phủ Thiên Trường ở Nam Định? Do đó, chúng tôi thiết nghĩ có thể nhà dịch chú đã hiểu lầm cái chóp tháp đúc bằng đồng ra cái đỉnh (vạc) và án khảo nội đoạn này kể chuyện Vương Thông đến chùa Báo Thiên nấu chảy dại hồng chung và chóp tháp bằng đồng để đúc súng đây. Vả lại phải là chùa và tháp Báo Thiên mới thuộc Tứ Đại Khí mà thôi.
Từ những án khảo nội trên có thể kết luận tháp Báo Thiên bị đổ là vì Vương Thông phá đi để lấy chóp đồng. Đến đời nhà Lê thì tháp Báo Thiên không còn nữa.

Bây giờ bàn đến việc chùa Báo Thiên biến mất là vì đâu?
Điều này rất quan trọng bởi có ý tưởng xuyên tạc rằng khi xây dựng Nhà Thờ Lớn thì ngôi chùa đã không còn nữa, hoặc chỉ là 1 đống hoang tàn đổ nát vô chủ? Trong ĐVSKTT tập II, tr 41 có ghi việc vua Lê Thái Tông đại trùng tu chùa Báo Thiên năm 1434. Ngày nay trong chùa Lý Quốc Sư vẫn còn lưu giữ bức gấm thêu sắc tứ chùa Báo Thiên đời Cảnh Hưng cuối thế kỷ 18.
Như vậy là cho đến đầu thế kỷ 19, chùa Báo Thiên vẫn còn nguyên vẹn là 1 ngôi chùa sắc tứ (tất nhiên là không còn tháp Báo Thiên). Bởi vấn đề chùa Báo Thiên có liên quan đến GM Puginier, cho nên cần sưu tầm những tư liệu có liên quan đến Puginier.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim có ghi việc F.Garnier mời Puginier từ Kẻ Sở về Hà Nội làm thông ngôn. Lúc đó (1873) F.Garnier đóng quân ở Trường Thi và đã lấy chùa Báo Thiên (bên cạnh đó) giao cho GM ở và làm việc cho gần. Tổng tập Nghìn năm Văn hiến Thăng Long Hà Nội , tập I, 2007, tr(?) có ghi rằng GM Puginier cho cất tạm thêm mấy gian nhà gỗ bên trong khuôn viên chùa. Nhưng F.Garnier chiếm mà không giữ được Hà Nội bao lâu vì y bị quân Cờ Đen giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế theo hòa ước 1874. GM lại trở về Kẻ Sở, tuy vậy chùa Báo Thiên lúc đó dù chưa bị phá huỷ nhưng với mấy gian nhà gỗ do GM dựng tạm đã trở thành ngôi nhà thờ Công giáo được các thày kẻ giảng người Việt trông coi. Trong sách “Hà Nội pendant la période héroique” của Masson, Hà Nội 1912, tr(?) có tả lại cảnh nhà thờ này: “Nhà thờ mới dựng giống như 1 ngôi đền Á Đông, có gian giữa rộng với nhiều cột bằng gỗ lim…”Mãi cho đến khi H.Riviere đánh chiếm Hà Nội lần thứ II (1882) thì nhà thờ mới có 3 cố Tây về cai quản. Masson (sách đã dẫn trên) có kể lại chuyện ngôi nhà thờ này bị đốt phá.

Năm 1883, H.Riviere bị quân Cờ Đen giết chết. Các nơi có quân Pháp đóng bị tấn công. Tại khu vực nhà thờ này có 1 tiểu đội Pháp đóng (cùng với 1 số giáo dân được cấp súng làm vệ binh). Đêm 19-5-1883, số lính tráng này bị tấn công, nhà thờ bị đốt phá tan tành. Ba cố Tây (Landais có tên Việt là Cố Lan, Rival – Cố Mỹ, Bertrand – Cố Phước) dẫn thủ hạ chạy sang ẩn ở chùa Bà Đá bên cạnh (được xây dựng từ khoảng cuối thế kỷ 15, tương truyền để thờ 1 tượng đá hình người đàn bà lượm được ngay dưới chân tháp Báo Thiên xưa), được sư cụ chùa Bà Đá che chở cho nên không bị bắt giết (Việc này Chu Thiên có đề cập đến trong sách “Hùng khí Thăng Long”). Rồi khi quân Pháp được tăng viện, chiếm lại khu đất này, thì nhà thờ đã bị đốt phá, những gian nhà gỗ bị cháy rụi, những phần khác của chùa xưa còn trơ lại những mảnh đống nham nhở đổ nát.
GM Puginier muốn xây dựng mới hoàn toàn, nhưng nhận thấy tính cách pháp lý của vấn đề chưa ổn, bèn bàn với Công sứ Bonnal và được Bonnal bày mưu, giao hết trách nhiệm về tay Tuần phủ Nguyễn Hữu Độ. Tuần Độ lập kế rất kín kẽ chi ly: trước hết gọi các kỳ hào phường Báo Thiên (mà hầu hết là giáo dân) lên bắt làm đơn xin cào sạch mọi di tích của chùa Báo Thiên cũ với lý do là chùa đổ nát để vậy dễ gây tai nạn nguy hiểm. Sau đó Tuần Độ cho đi tìm chủ nhân của khu đất này. Thì chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (thế kỷ 11) “đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt” làm sao có ai dám nhận mình là chủ? Vả lại trước đây F.Garnier lấy chùa còn khang trang giao cho Puginier làm chỗ ở và chỗ làm việc rồi, mọi động thái sau này của Tuần phủ Nguyễn Hữu Độ chẳng qua chỉ là pháp lý hóa 1 việc đã rồi mà thôi. Thế là Tuần Độ đem mảnh đất “vô chủ”ấy giao hết cho GM Puginier để làm Nhà Thờ Lớn. (Những sự việc kể trên đều được đích thân Bonnal kể lại với tất cả niềm hãnh diện của 1 công sứ Pháp đã trí tuệ đóng góp cho sự nghiệp của đạo Công giáo trong tập bút ký Bonnal: Souvenirs. Villebonnet đăng lại toàn bộ và dẫn chú tập bút ký này năm 1929, (NXB) Librairie Orientaliste Paul Genthner 13 rue Jacob, Paris VIe, trang 125).
Những chứng cứ này còn được 1 nguồn khác xác nhận, đó là sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20 của Nguyễn văn Uẩn, NXB Hà Nội 1995, tập II, tr 547 trong đó còn kể lại việc GM Puginier kiếm tiền xây dựng nhà thờ bằng quyên góp và xổ số. GM đã mở nhiều đợt xổ số: cuộc xổ số năm 1884 thu được 10 vạn đồng, cuộc xổ số năm 1886 được 6 vạn đồng. Nhà Thờ Lớn được khánh thành ngày 23-12-1887. Nguyễn văn Uẩn lấy tư liệu từ Masson:Hà Nội pendant la période héroique 1873-1888. Madrolle guide Hanoi 1912.

Còn về chùa Bà Đá thì do đâu mà ở trong khu đất này vẫn được nguyên vẹn?
Chùa Bà Đá được dựng lên để thờ 1 tượng đá hình người đàn bà nhặt được nơi chỗ chân tháp Báo Thiên đã bị phá năm 1426. Đến 1786, chùa bị phá huỷ và tượng Bà Đá bị mất. Sau đó chùa được trùng tu và 1 tượng Phật bằng đá được thế vào. Tuy vậy chùa vẫn mang tên là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang Tự.
Chùa Bà Đá không phải di dời ra khỏi khu vực phố Nhà Chung vì Nhà Chung nhớ ơn cứu mạng của sư cụ đối với 3 giáo sĩ Pháp là Landais, Rival, Bertrand trg đêm 19-5-1883 quân Cờ Đen tấn công Nhà Chung bắn giết giáo sĩ.

Điều cuối cùng là Tòa Khâm sứ. Theo đúng ngữ nghĩa thì Tòa Khâm sứ không phải là Tòa Đại sứ, lý do là vì Vatican chưa bao giờ lập Đại sứ với Việt Nam. Tòa Khâm sứ là cơ quan đại diện cho Tòa Thánh làm việc với Giáo hội[22](với các Giám Mục) . Tòa Khâm sứ lập ra năm 1925[23], ban đầu đặt ở Huế, đến năm 1951 dời ra Hà Nội và đến 1959 thì dời vào Sài-gòn. Lý do vì sao Tòa Khâm sứ Tòa Thánh Vatican lại không để ở Hà Nội là: Vatican không chịu nhìn nhận Chính phủ VNDCCH mà chỉ nhìn nhận Chính phủ VNCH ở Sài-gòn như là người đại diện duy nhất của nước Việt Nam .(Năm 1954, hiệp định Geneve tạm thời chia đất nước Việt Nam thành 2 vùng tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất . Nhưng nhà đương cuộc Sài-gòn không chịu hiệp thương , Vatican thì không chịu công nhận Chính phủ VNDCCH ở Hà Nội . Vì vậy Chính phủ ở Hà Nội trục xuất Khâm sứ và tịch thu Tòa Khâm sứ.).

Tóm lại, chùa Báo Thiên ở Hà Nội xưa quả thật đã là nạn nhân cực kỳ đau khổ của các thế lực xâm lược nước ngoài. Lịch sử của chùa và tháp Báo Thiên có liên quan với thiên cổ hùng văn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, với “máu lệ những kẻ tôi trung tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương[24]”của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.

Tuy chùa và tháp Báo Thiên không còn trên bản đồ thành phố Hà Nội nhưng chứng tích lịch sử thì vẫn rành rành ra đấy, 120 năm (1887-2007) đối với 1 đời người thì là dài, nhưng đối với lịch sử thì chẳng là bao lăm cả, dù vật đổi sao dời, dù mưu thâm kế độc, thế nào rồi cũng tìm ra được sự thật sáng ngời.

Ôi!Một mảnh đất của Tổ Quốc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và máu đào của dân tộc !

[1] nay đã chuyển thành trụ sở Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa và Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm.
[2] nguyên vào đời Lê Sơ (thế kỷ 15), dân sở tại đào được ở chân tháp Báo Thiên bấy giờ đã bị quân Minh tốc mái đồng xô sập (năm 1426) 1 tượng đàn bà bằng đá , bèn lập am để thờ. Am được mở rộng thành chùa thờ Phật, gọi là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang Tự. Năm 1786 (Bính Ngọ) chùa bị phá hủy, tượng đá bị mất. Sau đó chùa được làm lại và 1 pho tượng Thích Ca bằng đá được đặt thay tượng cũ.
Vào thời Tây (H.Riviere) chiếm Hà Nội lần thứ 2, đêm 19-5-1883, quân Cờ Đen đột nhập vào khu vực Phố Nhà Chung này, đốt phá nhà thờ bấy giờ còn bằng gỗ, giết hại các giáo sĩ và giáo dân , có 3 cố đạo (Landais, Rival, Bertrand) và mấy con chiên nữa, đã chạy vào chùa, được sư cụ trụ trì chùa Bà Đá che chở nên thoát nạn. Nhờ đó, Nhà Chung nhớ ơn, chỉ lấy bớt đi của chùa 1 ít đất, chứ không bắt phải di dời ra khỏi khu vực. Masson: Hà Nội pendant la periode heroique-Madrolle guide Hà Nội 1912.
[3] thờ Lý quốc sư Nguyễn Minh Không (1066-1141) , nguyên là tinh xá triều đình cho dựng lên bên cạnh chùa Sùng Khánh để sư Minh Không (trụ trì chùa Cổ Lễ-Nam Định) ở khi ông về Hà Nội chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông .
[4] Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm
[5] Báo Thiên Tháp Ảnh: Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam , NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội 1998, tr 92.
[6] Phạm đình Hổ: Tang thương ngẫu lụcà “Tháp xây bằng đá và gạch; viên gạch nào cũng có hàng chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”. Nền tháp cao có 4 cửa; trg tháp có tượng người , tiên, chim muông bằng đá đem từ Chiêm Thành về. Cửa tầng 3 có khắc “Thiên tử vạn thọ”. Suốt 12 tầng tháp đều có cửa, tầng trên cùng đúc bằng đồng. Đỉnh tháp có hàng chữ “Đạo lệ thiên” (đạo vói tận trời).
[7] nguyên văn : “Bính thân, năm thứ 3, mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến nông, làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua (Lý Thánh Tông nổi tiếng thương dân như con, LQV chú) thân làm bài minh. Đinh dậu, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng , 12 tầng…” (ĐVSKTT, tập I, NXB VHTT 2004, tr 318).
[8]capitaine de fregate, Trần Trọng Kim dịch là Đại úy, nhưng tôi (Lê Quang Vịnh ) nhận thấy quá thấp, bởi trong hải quân Pháp cổ, capitaine có nghĩa là chiến thuyền trưởng chứ không phải là đại úy như trong lục quân, hơn nữa có 3 cấp capitaine là Capitaine de corvette=thiếu tá hải quân; Capitaine de fregate=trung tá hải quân; Capitaine de vaisseau=đại tá hải quânèdo đó đề nghị dịch lại là trung tá hải quân (theo Larousse 1992).
[9] chính là Giám Mục Puginier (theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim)
[10] tại từ đường họ Nguyễn có 2 câu đối ca ngợi gia đình Nguyễn Tri Phương anh dũng hy sinh vì nước : Huynh khổn Bắc, đệ khổn Nam, lưỡng khổn Bắc Nam chi mạng / Phụ tử trung , tử tử hiếu, nhất đường trung hiếu chi vinh.
[11] khoảng giữa Thư viện KHXH và Trường Kỹ nghệ Hà Nội (theo Hà Thành thất thủ ca, câu 8)
[12] theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập I, 2007, trang
[13] Capitaine de vaisseau=Đại tá hải quân (xem chú thích số 6)
[14] Hà Ninh có 2 nghĩa trái ngược nhau: theo Trần Trọng Kim trg Việt Nam sử lược là Hà Nội + Ninh Bình, theo Nguyễn Hoàng Viên trg Hoàng Diệu 1829-1882 là Hà Nội + Ninh Bình + Hà Nam, nhưng theo Hoàng Xuân Hãn trg bản nghiên cứu về Chính Khí Ca thì lại là Hà Nội + Bắc Ninh.
[15] Tự Đức nói: “Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội…” (Đặng Duy Phúc: Thăng Long. Đông Kinh. Hà Nội , nơi hội tụ nhân tài. NXB Hà Nội 1996)
[16] Trg Hà Thành thất thủ ca có ghi: /Kính Thiên ngài ngự thếp vàng,/Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu./Các chùa miếu đâu đâu đấy tá,/Can gì Tây cũng phá tan tành? (câu 115-118)
[17] còn có 1 yếu tố tinh thần khác dẫn đến quyết định của H.Riviere phá hết các đình chùa ở Hà Nội mà Giáo sư Vũ Khiêu có nhắc tới: “Ngay từ giờ phút đầu tiên…các đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của quan quân trong thành…” (Giáo sư Vũ Khiêu: Lễ tưởng niệm danh nhân yêu nước Hoàng Diệu nhân 170 năm sinh tại Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 30-10-1999. Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu , NXB Đà Nẵng 2001, trang 216).
[18] tên gọi của Tòa Giám Mục đã thay đổi rất nhiều lần kể từ khi đạo Thiên Chúa được truyền vào Việt Nam. Năm 1679, Tòa Thánh chia Địa phận Đàng Ngoài thành 2: Địa phận Tây và Địa phận Đông Đàng Ngoài. Năm 1846, Địa phận Tây Đàng Ngoài lại được chia làm 2: Địa phận Tây Đàng Ngoài và Địa phận Nam Đàng Ngoài. Hà Nội nằm về phía Tây nên thuộc về Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Tòa Giám mục lúc ấy được gọi là Tòa Giám Mục Tây Đàng Ngoài. Mãi đến năm 1924 mới lấy tên nơi đặt Tòa Giám Mục làm tên gọi các Giáo phận. Tòa Giám Mục Hà Nội có tên từ ấy (GHCGVN, niên giám 2004, trang 218)

[19] Apostolic Delegate: Khâm sứ Tòa Thánh (= vị đại diện của Đức Giáo Hoàng, không làm nhiệm vụ ngoại giao như apostolic nuncio mà chỉ làm nhiệm vụ của Giáo Hội là liên lạc với các giám mục ở những quốc gia không có quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican (Nguyễn Đình Diễn: Từ điển Công giáo Anh Việt, NXB Tôn giáo , Hà Nội 2002, trang 49)
[20] Sự thật những cuộc “biểu tình cầu nguyện” bắt đầu từ đêm 18-12-2007 và chấm dứt ngày 2-2-2008
[21] trượng = 3,3333m
[22] xem chú thích số 19
[23] Nếu tính từ gốc gác thì năm 1922, GH Pio XI đã cử GM Dòng Tên Lecroart địa phận Thiên Tân Trung Quốc làm Khâm sai Tòa Thánh đi quan sát tình hình các giáo phận ở Đông Dương ; năm 1925, GH Pio XI lập Tòa Khâm sứ Đông Dương + Thái Lan và ngày 25-5-1925 cử GM Constantino Ayuti làm Khâm sứ ĐD. Ban đầu Tòa Khâm sứ đặt tại Hà Nội , nhưng lúc đó, Hà Nội không phải là kinh đô của nước , cho nên phải đưa về Huế, kinh đô đế chế An Nam và Tòa Khâm sứ đặt gần Nhà thờ chính tòa Phủ Cam; năm 1928, GM Constantino Ayuti qua đời, GH Pio XI cử GM Columban Dreyer đến thay (vẫn ở Huế); năm 1937, GM Antonio Drapier được cử về thay (vẫn ở Huế). Năm 1945, nước Việt Nam tuyên bố Độc lập và thủ đô là Hà Nội . Năm 1950, GH Pio XII cử GM John Jarlath Dooley (người Ireland) làm Khâm sứ ĐD; năm 1951, Tòa Khâm sứ ĐD được dựng lên tại Hà Nội . Năm 1954, nước Việt Nam bị chia thành 2 miền Nam Bắc, GM J.J.Dooley vẫn ở lại miền Bắc nhưng Vatican nhất quyết vẫn coi Nhà nước VNDCCH như là 1 chính quyền bất hợp pháp và cương quyết không thừa nhận. Năm 1959, chính phủ VNDCCH trục xuất chức Khâm sứ. Tháng 3/1959, GM JJDooley lấy lý do sức khỏe vào Nam; Lm Đức Ông Terence O’Driscoll được cử làm Quyền Khâm sứ, nhưng chỉ được mấy tuần thì chính phủ VNDCCH trục xuất và tịch thu Tòa Khâm sứ.
[24] Hồ Chí Minh : Lịch sử nước taà Nước ta nhiều kẻ tôi trung / Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương / Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương / Cùng thành còn mất, làm gương để đời.
Xem thêm những tin liên quan về vụ "tòa khâm": http://www.phatviet.org/index.php?nv=News&at=article&sid=2881

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét