Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2008

TỪ TƯỢNG VUA LÝ THÁI TỔ Ở HÀ NỘI ĐẾN TƯỢNG ĐÀI BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC TẠI TP.HCM

Mới đây, trong dịp về thăm Hà Nội, tôi và hai người bạn Mỹ được một bạn Phật tử, dân Hà Nội chính gốc, dẫn đi thăm tượng đài vua Lý Thái Tổ ở gần bờ hồ Hoàn Kiếm. Tượng cao trong một không gian thoáng rộng, dáng hùng vĩ và nét mặt quắc thước nhưng vẫn đậm nét đôn hậu vương giã. Tuy không có dữ kiện lịch sử để xác định khuôn mặt của nhà vua ra sao nhưng, theo tường tượng chủ quan của tôi, điêu khắc gia đã lột tả được hình ảnh hùng tráng mà nhân hậu của vị vua sáng lập ra triều Lý. Nhất là vị vua đó đã có viễn kiến nhân văn để thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long cách đây sắp được 1000 năm.


Chỉ đáng tiếc, và buồn, một điều: Ngoài phần khắc tên “Lý Thái Tổ” và năm sanh và năm mất “974 – 1028” dưới chân tượng, trong toàn bộ quần thể kiến trúc to lớn và trang trọng đó của tượng đài, không có một bảng chỉ dẫn nào ghi chú xem “ông” Lý Thái Tổ nầy là ai ? Có công gì với tổ quốc mà được tạc tượng ghi ơn tại địa điểm thanh lịch nhất của thủ đô Hà Nội nầy. Lẽ dĩ nhiên ai cũng còn đọng lại trong trí nhớ của lớp Sử thời trung học vài nét chấm phá mơ hồ về vị vua xuất thân từ cửa nhà chùa nầy. Nhưng thi xong là … hết, trừ ra sau đó chọn ngành Sử làm niềm đam mê hay lẽ kiếm sống thì lại là chuyện khác. Đối với khách du lịch nước ngoài thì lại cả một vấn đề. Cuốn cẩm nang du lịch Lonely Planet nổi tiếng thì chỉ ghi vài dòng ngắn ngủi mà nội dung không biện giải được lý do tại sao một ông vua “cũng thường thôi” mà lại được dân ta ngưỡng mộ tôn thờ đến thế.
Ở nước ngoài, thiên hạ cũng … lung tung ! Tại thủ đô Paris bên Pháp, trước cổng chính vào đại học Sorbonne, dưới chân tượng bán thân của nhà tư tưởng Auguste Comte, ta cũng chỉ thấy khắc tên ông rất đơn giản mà thôi, thậm chí không có cả hai mốc thời gian “1798 – 1857” thường phải có nữa. Ngồi trong quán cà phê La Sorbone đối diện, nhấm nháp ly expresso, nhìn khuôn mặt trầm tư của ông, tôi không ngờ ông là một trong những cha đẻ của một bộ môn mà ngày nay có hàng triệu người theo đuổi: Khoa xã hội học.
Trong khi đó thì tại thủ đô Washington DC bên Mỹ, trong quần thể đài tưởng niệm Lincoln Memorial, điêu khắc gia Daniel Chester French đã tạc một bức tượng của vị tổng thống giải phóng dân nô lệ Abraham Lincoln bằng cẩm thạch trắng cao hơn 6 mét, và trên mặt tường làm phông cho bức tượng có khắc một câu ghi nhớ ơn ông: “Trong ngôi đền nầy cũng như trong tâm tưởng của nhân dân mà vì họ ông đã cứu lấy tổ quốc, niềm tưởng nhớ đến Abraham Lincoln thì được tôn thờ muôn đời” (In this temple as in the heart of people for whom he saved the Union, the memory of Abraham Lincoln is enshrined forever). Ngoài ra, chính phủ còn cho khắc trên tường bài diễn văn Gettysburg ngắn và bài diễn văn nhậm chức nổi tiếng của ông (vốn là hai áng văn chính luận rất nhân bản và cao cả nói lên lý tưởng nhân đạo và triết lý trị nước của ông).
Ta không theo Tây mà cũng không theo Mỹ, cứ thấy đúng thì ta làm. Cho nên “hà tiện” chi mà không làm một văn bia (với thiết kế truyền thống hay hiện đại gì cũng được) với nội dung cô đọng nhưng đầy đủ, ghi lại những thông tin cốt lõi và đặc sắc nhất của cuộc đời vua Lý, vừa để giúp đồng bào ôn lại Sử nước nhà vừa để khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
* *
*
Cách đây đúng 45 năm, vào ngày 11/6/1963 (tức ngày 20/4 nhuận năm Quý Mão), Hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu trong tư thế kiết già ở giữa ngã tư hai đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là ngã tư hai đường Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng Tám thuộc Quận 3, Thành phố HCM), trước hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử, đồng bào Sài Gòn và các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước.
Hòa thượng Thích Quảng Đức đã an nhiên tự tại nằm xuống để Bồ tát Thích Quảng Đức đại hùng đại bi đứng dậy. Nhân dân yêu chuộng công lý và tự do khắp nơi trên thế giới rúng động. Sáu tháng sau, một chế độ độc tài giáo trị đã bị nhân dân miền Nam đứng lên dõng dạc khước từ bằng một tiếng “Không” âm vang bát nhã.
Trước sự hy sinh phi thường và dũng cảm của Hòa thượng Thích Quảng Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức cảm động và đã có câu đối kính viếng Hòa thượng như sau:
Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng huy thiên nhật nguyệt. Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà.
(Theo Phạm Hoài Nam. Bồ tát Thích Quảng Đức, ngọn đuốc xả thân vì Đạo pháp và Tổ quốc. Báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 30-5-2005).

Trong khi đó thì tại Sài Gòn, giữa vòng vây dày đặc của các cơ quan mật vụ của chế độ Diệm, một nhà thơ hiền lành nhưng “uy vũ bất năng khuất”, vốn được xưng tụng là thi bá của nền văn học miền Nam thời bấy giờ là thi sĩ Vũ Hoàng Chương, đã xúc động đến tận tâm can mà xuất thần sáng tác ra bài thơ còn lưu truyền muôn thuở:

Lửa từ bi

Lửa! Lửa cháy ngất tòa sen! Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quỳ cả xuống.Hai vầng sáng rưng rưng,Đông Tây nhòa lệ ngọc,Chắp tay đón một mặt trời mới mọc.
Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên ...
Ôi đích thực hôm nay trời có mặt,Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga,Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt,Nhìn nhau: tình huynh đệ bao la l
Nam mô Đức Phật Di Đà,Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,Người rẽ phăng đêm tối đất dầy,Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây,Gọi hết Lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật pháp chẳng rời tay.Sáu ngả luân hồi đâu đó,
Mang mang cùng nín thở,Tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay,Không khí vặn mình theo, khóc oà lên nổi gió,Người siêu thăng ... giông bão lắng từ đây ...
Bóng Người vượt chín tầng mây,Nhân gian mát rợi bóng cây bồ đề.Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc,Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi.Chỗ Người ngồi, một thiên thu tuyệt tác,Trong vô hình sáng chói nét từ bi.
Rồi đây.. Rồi mai sau... Còn chi?Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát,Với thời gian, lê vết máu qua đi ...Còn mãi chứ, còn Trái Tim Bồ Tát,Gội hào quang xuống tận chốn A Tỳ.
Ôi ! Ngọn lửa huyền vi ...Thế giới ba nghìn, phút giây ngơ ngác,Từ cõi vô minh Hướng về cực lạc,Vần điệu thi nhân chỉ còn là rơm rác,Và cũng chỉ nguyện được là rơm rác.Thơ cháy lên theo với lời kinh,Tụng cho nhân loại hòa bình,Trước sau bền vững Tình Huynh Đệ này.Thổn thức nghe lòng trái đất,Mong thành quả phúc về cây.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật!Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt,Tình thương hiện tháp chín tầng xây.
Vũ Hoàng Chương
(Sài Gòn, 15-7-1963)
Từ hai đầu đất nước xa xôi, cách nhau gần 10 thế kỷ lồng lộng, hai Phật tử Việt Nam là Lý Công Uẫn và Thích Quảng Đức, một tăng một tục, đã nắm chặt tay nhau để nói chỉ một lời, làm chỉ một chuyện: Xả thân cho chúng sinh, hy sinh vì dân tộc.
Được biết Sở Thông tin Văn hoá Tp HCM và Giáo hội PGVN đang trong tiến trình hoàn tất khu tượng đài kỹ niệm Hòa thương Thích Quảng Đức, tôi mạo muội đề nghị thêm vào quần thể kiến trúc nầy hai “văn bia”: Một là hai câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và một là bài thơ Lữa Từ bi của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Có lẽ chử đen khắc trên hai tảng cẩm thạch trắng, nằm riêng rẽ tự nhiên nhưng hòa điệu với thiết kế chung là đẹp và ý nghĩa nhất.
Việc làm nầy có nhiều ý nghĩa, mà có lẽ ý nghĩa rõ nét nhất là dân ta có nét văn hóa riêng: Uống nước nhớ nguồn.
Nguyễn Kha
California, 6/2008


THỬ PHÂN TÍCH NHỮNG DIỄN BIẾN TÔN GIÁO GẦN ĐÂY TẠI VIỆT NAM


Theo tin BBC Việt ngữ, “TGM Hà Nội nhất định đòi Tòa Khâm sứ”. Phát biểu trên xuất hiện trong chuyến thăm cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Đức của TGM Ngô Quang Kiệt, gần thời điểm phái đoàn Vatican chuẩn bị sang thăm Việt Nam. Cũng trong tin này, Đức ông Nguyễn Văn Phương, thuộc Bộ Truyền giáo Vatican nói về sự quan tâm của Vatican đến Tòa Khâm sứ, Thánh địa La Vang và Giáo hoàng Học viện ở Đà Lạt. Tuy nhiên, trong tin “Phái đoàn Vatican sắp tới Hà Nội” của BBC Việt ngữ, Linh mục Stephanô Bùi Thượng Lưu lại cho rằng: "Việc đòi lại đất chỉ là bề nổi. Điều ẩn hiện đằng sau mà Giáo hội đòi hỏi là việc nhà cầm quyền cũng như dân tộc ghi nhận đóng góp của Giáo hội cho đất nước".

Cuộc viếng thăm của phái đoàn Vatican không ngoài việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Vatican và Việt Nam. Và với câu hỏi về hy vọng cho chuyến đi lần này, Đức ông Nguyễn Văn Phương nói "hy vọng thì vẫn hy vọng những cũng tùy vào phía bên kia thế nào, cũng chưa có gì chắc chắn cả" (BBC Việt ngữ).

Đúng là ba “miếng” đất kia chỉ là bề nổi, là sự “ẩn hiện” có tính toán, nếu quan hệ giữa Việt Nam và Vatican được thiết lập. Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với một quốc gia (Vatican) mà quá khứ có nhiều ân oán, tình thù với nhau cũng là chuyện bình thường, vấn đề là những “điều kiện” mở đường cho nó sẽ ở mức độ nào giữa nhận thức chung trong mối quan hệ: “hai bên cùng có lợi”. Nếu cái “điều kiện” đó có thể đáp ứng lớn hơn mức bình thường mà hai bên có thể thỏa mãn thì việc tranh chấp vài miếng đất có thể coi “như có như không”. Đó là điều ai cũng nhìn ra, tuy nhiên ai là người sẽ “nhượng bộ” để đổi lấy những ích lợi cụ thể thì vẫn còn là một câu hỏi.

Cần nói thêm, Trung Quốc vẫn chưa mặn mà với việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Vatican, vì gần như Trung Quốc đã làm được cái việc tách Giáo hội Công giáo Trung Quốc ra khỏi Vatican trong thế độc lập tương đối.

Điều đáng chú ý, ngoài ý tứ quyết “sống mái” của TGM Ngô Quang Kiệt: “nhất định đòi Tòa Khâm sứ” (bất chấp dư luận xã hội trong đó có phản biện của Phật giáo) là việc “đòi hỏi việc nhà cầm quyền cũng như dân tộc ghi nhận đóng góp của Giáo hội cho đất nước”. Cũng là “đòi” cả thôi nhưng ở hai cấp độ khác nhau.

Đòi đất kiểu “quyết liệt” như TGM Ngô Quang Kiệt đích thực là bề nổi, nhưng không phải không có chủ ý lấy “gân” thử “gân” và cái “đòi” ấy là rất cụ thể. Còn việc “đòi hỏi việc nhà cầm quyền cũng như dân tộc ghi nhận đóng góp của Giáo hội cho đất nước” mà Linh mục Bùi Thượng Lưu nói tuy to tát nhưng rất thiếu tế nhị, nếu không nói là tự nhận mình ở cái thế “bên lề”.

Khi nói đến từ “đòi” người ta thường liên hệ đến việc bị lấy mất, bị xâm chiếm. Nhưng không ai lấy mất những “đóng góp” của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho đất nước mà phải đòi. Khi đòi “dân tộc” phải ghi nhận đóng góp ấy, liệu có “đòi” dân tộc và cụ thể là Phật giáo phải quên đi những di sản văn hóa chùa chiền, đình miếu bị chính sách đồng hóa hủy diệt không?

Dĩ nhiên, trên khắp thế giới, thời nào cũng thế, nhà cầm quyền, những người lập ra chế độ chính trị, chính sách, hiến pháp, pháp luật, quân đội, nhà tù… được toàn dân nhất trí (theo tiêu chí phổ thông đa số thắng thiểu số) họ có quyền lực cao nhất để “hướng dẫn xã hội”. Đó là cái thế “cầm quyền” của họ, họ “lấy” bằng cách gì và họ “trả” như thế nào với những tài sản tôn giáo, phi tôn giáo cũng là cái thế cách “cầm quyền” của họ, và điều đó không phải không có ý nghĩa trong những thời điểm lịch sử nhất định. Hiện nay, chính thể lưu vong Việt Nam Cộng Hòa có tư cách pháp lý tại Mỹ (tức chủ thể hiện hành), nhưng có thể kiện tòa án quốc tế để đòi lại thủ đô Sài Gòn được không?

Công giáo Việt Nam từ trong lịch sử đã “cưỡng chiếm” biết bao nhiêu chùa chiền của Phật giáo một cách bất hợp pháp, ai là người sẽ đòi món nợ ấy với họ? Hiện tại, Công giáo Việt Nam chỉ là một tổ chức trong một quốc gia và phải chịu qui định bởi luật pháp của quốc gia ấy. Trong ba cơ sở mà Công giáo có ý định “đòi” (“bề nổi”, “ẩn hiện”) thì có đến hai cơ sở là di sản Phật giáo từng bị cưỡng chiếm và phá hủy rồi xây lên đó những nhà thờ. Nếu nói một cách “công lý” và “công bằng” thì Công giáo Việt Nam nên suy nghĩ nhiều hơn về điều này, không nên tiếp tục khơi lại những vết thương đau của lịch sử dân tộc.

Không phải ngẫu nhiên vụ cầu nguyện đòi đất Tòa Khâm sứ nổ ra và có phản ứng dây chuyền trên khắp cả nước. Bởi một động thái tôn giáo của nhà nước trước đó được xem là “bất lợi” cho tiến trình phát triển của Công giáo Việt Nam chính là trong mùa Phật đản năm 2007, Nhà nước tuyên bố đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc. Tâm lý lo ngại có thể bị rơi ra khỏi sự quan tâm đã chuyển sang thái độ phản ứng “đòi” đất. Tuy nhiên, tất cả sự “ẩn hiện” đó đều hy vọng vào một khả năng duy nhất “thúc ép” Việt Nam “bình thường hóa” với Vatican.

Có thể vụ cầu nguyện đòi đất chỉ là một bức màn của một sân khấu đã được đạo diễn sẵn, nhằm đẩy Chính phủ Việt Nam vào một thế bí đối với dư luận trong và ngoài nước: “cướp đất”, “đàn áp tôn giáo”, “vi phạm nhân quyền”… Sau đó chính Vatican lại can thiệp và làm cho sự việc lắng dịu. Sức mạnh “can thiệp” đó nhằm vào một chủ đích lớn hơn, bởi gần như sức ép dư luận “quốc tế” mà Vatican có khả năng chi phối là rất nặng kí. Kế sách vừa đánh vừa nhử, lùi một bước tiến ba bước quả là ngoạn mục. Lưu ý, TGM Ngô Quang Kiệt là do Vatican bổ nhiệm và được Chính phủ Việt Nam chấp thuận.

Điều bất ngờ lớn nhất của Chính phủ không phải ở việc “đòi đất” thông thường mà là ở người phát động chiến dịch đòi đất nhân danh Tổng Giám mục thủ đô đúng vào dịp lễ Giáng sinh, đúng vào dịp Thượng viện Mỹ đang có ý định đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, đúng vào dịp kỷ niệm một năm gia nhập WTO, quả là vô cùng nhạy cảm.

TGM Ngô Quang Kiệt, khi còn quản chưởng tại Lạng Sơn và mới được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục giáo phận Hà Nội đã không ít lần ca ngợi chính sách cởi mở tôn giáo của nhà nước trên các mặt báo. Bởi ai cũng biết cứ đến dịp Giáng sinh, báo chí, đài truyền hình đưa tin một cách rầm rộ, cũng chẳng thua kém gì Vesak 2008. Người ta còn đặt câu hỏi về Đài truyền hình TP.HCM và Báo Tuổi Trẻ liệu có người “thân Công giáo” quá mức không mà “quảng cáo” cho Giáng sinh nhiều như vậy. Điều này không phải không khiến cho một số Phật tử suy nghĩ về những ngày lễ quan trọng của mình.

Thử hỏi trong ngần ấy năm TGM Ngô Quang Kiệt không biết đến mảnh đất Tòa khâm sứ đó như thế nào chăng? Điều gì đã khiến ông phát động “Lễ hiện xuống mới”, “đòi đất” nhân danh “công lý và hòa bình”? Có phải là thiếu đất sinh hoạt không? Có phải vì sự ồn ào của Trung tâm Văn hóa - Thể dục thể thao không? Hay vì chiếc “mũ đỏ” (Hồng y)? Hay có một thế lực nào khác đứng đằng sau giật dây nhằm gây bất ổn xã hội?

Nói xa nói gần thì cũng có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân gần chính là bang giao giữa Việt Nam và Vatican (xúc tiến từ thời ông Võ Văn Kiệt nắm quyền thủ tướng) vẫn chưa trở thành hiện thực, trong khi đó động thái của nhà nước trong việc tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc đã khiến Công giáo Việt Nam phần nào cảm thấy “thua thiệt” (từ nhiều năm nay cả Công giáo và Tin lành đều cho rằng nhà nước “ưu ái” Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chính vì vậy không lúc nào Giáo hội Phật giáo không bị gắn vào đó từ “quốc doanh”, một cách vô tội vạ và đầy ác ý).

Vesak Liên hợp quốc được nhà nước Việt Nam đăng cai tổ chức, có nghĩa rằng, trực tiếp hay gián tiếp nhà nước xem Phật giáo là tôn giáo chủ lưu. Động thái đó của nhà nước không chỉ làm cho một số tôn giáo “mất bình tĩnh” mà còn (vô tình hay cố ý) làm lu mờ những “thông điệp” to tát của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), gồm khoảng 20 chùa và 80 tu sĩ, trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) có khoảng 17.000 ngàn tự viện và 50.000 tu sĩ. Dễ hiểu tại sao GHPGVNTN (qua một số người thiếu chính danh, thừa chống đối) lại phản ứng với Vesak 2008 một cách ngây ngô đến như vậy.

Nhìn kỹ vào động thái này của nhà nước mới thấy, chính Giáo hội Phật giáo Việt Nam mới là mục tiêu của mọi sự công kích. Bởi trước Vesak Liên Hợp quốc rất nhiều hàng giáo phẩm của GHPGVN bị công kích. Trên email của các cơ quan, diễn đàn, website Phật giáo xuất hiện thường xuyên các bài viết nói xấu, xuyên tạc, gây chia rẽ của những tên tuổi không lạ gì trên các website Công giáo và website chống Cộng ở hải ngoại mà Lữ Giang Tú Gàn… là thủ lĩnh của nhiều bài viết. Không lúc nào bằng lúc này, đó chính là thách thức rất lớn với GHPGVN. Trong mong muốn chung của người Phật tử, một cuộc “hòa giải” giữa GHPGVN và GHPGVNTN mới thực sự làm cho Phật giáo trở lại đúng tinh thần Phật giáo Việt Nam (lúc thanh bình vui với mõ sớm chuông chiều, khi biến động đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân).

Song không thể bỏ qua suy nghĩ về “thế thuật” chính trị của Nhà nước. Phải chăng trước khi có thể tiến tới bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Vatican, nhà nước “an ủi” Phật giáo bằng một Vesak hoành tráng ở Mỹ Đình? Chưa chắc sự bừng lên của Phật giáo tại các địa phương đã là một mong muốn của các phía. Thế nên mọi suy diễn về Vesak 2008 lúc này sẽ là quá sớm. Nhưng rất có thể Vesak cũng là dịp đề nhà nước “nhìn” vào thực lực của Phật giáo để cố gắng hiểu Phật giáo ở mức độ bản chất mà Liên Hợp quốc đã đề cao, trong khi Việt Nam đang giữ ghế không thường trực tại Hội đồng Bảo an.

Việc nhà nước lần lượt công nhận các đạo như Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành, Tịnh Độ Cư Sĩ… cho thấy nhận thức tôn giáo của nhà nước là rất linh động và “co giãn” khi cần. Từ hiện thực này mới hiểu tại sao nhiều người vẫn cố tình nhầm lẫn về định nghĩa “tôn giáo” để khẳng định một sự “bình đẳng” tương đối cho tất cả các tôn giáo. Thậm chí có một câu nói đã trở thành quen thuộc cho bất cứ ai khi được hỏi về tôn giáo: “tôn giáo nào cũng hướng thiện, cũng dạy người ta làm lành” mà không cần phải phản biện gì, bởi có thời khi nhắc đến tôn giáo là nhắc đến mê tín dị đoan, nhắc đến tổ chức phản động. Cách hiểu về tôn giáo “hướng thiện, làm lành” ấy không thể đi đôi với định nghĩa tôn giáo được nhìn nhận dưới góc độ quyền lực chính trị, tổ chức. Bởi vậy mọi tham vọng tôn giáo, quyền lực đều có nguy cơ đe dọa đến bất kỳ thể chế nào. Nếu tất cả các tôn giáo đều dạy người ta làm lành thì tại sao những cuộc thánh chiến trên thế giới lại diễn ra một cách tàn bạo như vậy?

Mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật thì rất hay nhưng cũng để phục vụ cái gì đó rất cụ thể. Có thể nhìn sự bình đẳng đó trong một thế giới cạnh tranh sinh tồn thì thấy nó có phần thô thiển như thế này: Rõ ràng nếu xét về mặt sinh vật sống, mọi con vật đều có nhu cầu tìm kiếm thức ăn, nhưng có con ăn cỏ còn có con ăn thịt, trong những con ăn thịt cũng tùy khẩu vị mà ăn thịt nhau, và những con to và có sức mạnh sẽ ăn những con nhỏ… Nếu coi chúng bình đẳng, đều là những sinh vật, rồi nhốt chung chúng lại với nhau, điều gì sẽ xảy ra, ai cũng rõ. Nếu nhốt tách chúng ra thì phải có biện pháp bảo vệ, cung cấp thức ăn, môi trường cho từng loại và không thể không cẩn thận khi tới gần những động vật ăn thịt chưa thuần, thậm chí thuần rồi cũng chưa chắc chắn với sự nổi điên (thú tính) bất chợt của nó.

Một số tôn giáo lớn của nhân loại từ quá khứ đến hiện tại, dù kín đáo hay thô lỗ vẫn liên tục “nổi điên” và gần như trở thành ngòi nổ của tất cả các xung đột chính, và không phải không có lúc nhân danh đức tin và Thượng đế cao cả mà người ta gọi nó bằng một từ cung kính: “Thánh chiến”. Đặt mọi tôn giáo vào một khung “bình đẳng” kiểu chiết trung như vậy sẽ trở nên khập khiễng, bởi mỗi tôn giáo đều có giáo lý, phương pháp, cách hành trì, nhân sinh quan và thế giới quan rất khác biệt. Nếu như “văn hóa” có khoảng vài trăm định nghĩa không thống nhất về tiêu chí thì “tôn giáo” cũng không biệt lệ. Chí ít câu “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng nhân dân” cũng là một định nghĩa ra đời trong hoàn cảnh của chính nó, và nó không thể hoàn toàn là định nghĩa mang tính thước đo trong nhận thức tôn giáo của phương Đông.

Trong khi xã hội gặp khủng hoảng về đạo đức, luân lý chúng ta nói một cách rất ồn ào về nhiều những giá trị mà chúng ta đang tiếp thu là những giá trị “cặn bã” mà các quốc gia phương Tây đã thải ra. Và với quan niệm về tôn giáo còn nhiều khập khiễng như vậy, không thể không lo lắng với những xu hướng tiếp thu, nhập khẩu những sản phẩm tôn giáo đã trở nên cặn bã. Trong những thời điểm quá khứ, loài người đã nhiều lúc vùng lên chống lại những giá trị tôn giáo được xem là cặn bã, cản trở bước tiến của nhân loại, nhưng tôn giáo vẫn hiện diện và lớn mạnh với nhiều cải tổ tích cực và cũng không ít những biến tướng cực đoan, nguy hiểm. Như vậy có thể nào nói rằng chính con người chúng ta đang tìm mọi cách khôi phục những giá trị cặn bã của tôn giáo?

Có nhiều các giá trị tôn giáo được điều chỉnh thích nghi đã đem đến cho xã hội những hình ảnh con người cao đẹp và thánh thiện. Song điều đó là chưa đủ để tôn giáo có thể cao giọng lên án xã hội loài người, lên án một thể chế cụ thể về tình trạng đánh mất luân thường đạo lý, tham nhũng, độc tài, phát-xít, băng hoại đạo đức… bởi chính tôn giáo cũng đã từng trực tiếp hay gián tiếp làm cho sự bất tín về cái đẹp, cái cao cả của xã hội gia tăng.

Dĩ nhiên không ai có quyền cấm chúng ta hiểu những giá trị tôn giáo ở tầng cao thánh thiện như một sự thực nghiệm tâm linh có giá trị tinh thần tích cực với loài người. Song tôn giáo, ở góc độ xã hội cụ thể là tổ chức sẽ cho chúng ta một cái nhìn gần hơn, sinh động hơn, vì nó gắn chặt với lời nói, suy nghĩ và hành động của mỗi con người.

Chẳng hạn Phật giáo nói đến Niết bàn, nói đến cõi Cực lạc như một cái gì đó mà con người rất khó nắm bắt, mỗi người hiểu một cách khác nhau tùy theo thế chất, tâm lý, niềm tin của mình, không ai bắt Niết bàn của anh phải giống như Niết bàn mà tôi khám phá ra. Nhưng ở một chiều cao của nhận thức (hóa giải kiến chấp), Phật giáo nói “phiền não tức bồ đề”, “không có Niết bàn và không có địa ngục”. Vua Trần Thái Tông từng nói “Hang quỷ ở cũng là lâu đài Di Lặc, núi hắc sơn không khác cảnh giới Phổ Hiền”. Nếu ở hang quỷ mà mang tâm Phật thì hang đó là hang Phật, và ngược lại. Nhưng đó là sự thể nghiệm tâm linh trong những ý nghĩa mà không phải ai cũng chấp nhận, đặc biệt trong thế giới mà xu hướng độc tôn và độc quyền, ngã chấp, phân biệt rạch ròi (ta sống nó chết) đang trở nên phổ biến.

Hàng ngày chúng ta vẫn phải nghe đầy tai những từ ngữ công kích và chống đối của “chủ nghĩa phi cộng sản” hướng vào Cộng sản và ngược lại, giống như quá khứ lịch sử người ta đã hướng sự tấn công vào nhà thờ, vào chủ nghĩa phát-xít… Thế giới từng chia ra làm hai phe Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa, rồi chuyển từ chiến tranh nóng sang chiến tranh lạnh. Người ta xem đó là tính chất nước đôi của mọi sự phát triển, bất kỳ phe nào mạnh nên đều là lo sợ, phòng bị của phe kia. Tôn giáo thì sao? Đạo Phật phát triển mạnh ở phương Tây không khỏi khiến cho nhà thờ quan ngại. Chính Giáo Hoàng John Paul II phải viết cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” với một nhắn nhủ con chiên “đừng sợ”!

Tại Việt Nam, đảng Cộng sản đang nắm quyền lãnh đạo theo một sản phẩm triết học đến từ văn minh phương Tây (bây giờ là kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh). Marx là một triết gia lớn của nhân loại, nhưng sản phẩm của ông cũng nằm trong tính chất nước đôi của thế giới, có nghĩa rằng ông chống đối cái gì, thì nhất định cái đó không thể mỉm cười với ông và với triết học của ông được. Chủ nghĩa Cộng sản bị lên án là “vô thần”, “độc quyền”, “độc tài”… người lên án cố dùng những từ “độc” để gắn vào những chuyện tự do, dân chủ, nhân quyền, công lý, mà những thứ “dân chủ”, “nhân quyền”, “công lý” ấy không ai, không quốc gia gia nào có thể tùy tiện định mức được.

Cứ vào google.com gõ từ khóa “Tòa khâm sứ” sẽ hiện ra cả một rừng tranh luận. Và người Công giáo nghiễm nhiên đứng về phía những người chống Cộng, cả hai hợp lại và không tiếc ngôn ngữ gì để ngắm vào Việt Nam với không ít những từ “độc” kể trên. Nhưng ai dám phản biện lại rằng chính họ từ quá khứ đến hiện tại chưa từng có ý định từ bỏ việc “thần quyền” chính mình, độc quyền tôn giáo, tư tưởng khi mong muốn cả thế giới bước vào nghi lễ “rửa tội”. Và hiện nay ở Việt Nam chẳng ai buồn nhắc đến sự vi phạm tự do tín ngưỡng của họ khi dùng hôn nhân như một cách “ép” người cải đạo. Nhưng ai dám nói vì đó là chuyện tôn giáo (nhạy cảm lắm).

Tại sao người ta phải sợ tôn giáo đến vậy? Sợ đến mức mà vụ “Tòa Khâm sứ” báo chí cả nước gần như phải im hơn lặng tiếng. Chuyện này nếu xảy ra ở Pháp hay Mỹ thì cũng chỉ là một chuyện rất bình thường, bởi biểu tình là “cơm bữa” trong những xã hội này và mọi người có quyền thông tin để hướng dẫn dư luận, không để những sức ép “đòi đất” kiểu ấy trở nên quá đà.

Thử hỏi có chế độ nào mà những thông tin nhạy cảm về chuyện tiêu cực trong tôn giáo được “bảo hộ” kỹ (một cách lợi-hại) như ở Việt Nam không? Nếu một ngày nào đó thông tin tự do được thả ra thì chuyện “đi đêm”, “loạn dâm”, “lừa tiền”… của giới tu sĩ nói chung sẽ được bày đầy ra trên mặt báo. Chẳng khác gì những scandal tình dục của tu sĩ ở Mỹ. Giới tu sĩ Việt Nam hãy coi chừng mà điều chỉnh mình, bởi chưa đến lúc cần thôi, những tin tức đó sẽ đầy trên mặt báo.

Cộng sản hay Thiên Chúa giáo… đều là những sản phẩm tinh thần đến từ phương Tây, có gì khác nhau khi mỗi bên được sinh ra từ trong lòng chính nó. Hai thế lực tinh thần (được cụ thể hóa bằng quyền lực và vật chất này) có những nhân quả gì trong việc chỉ ra cho thế giới thấy rằng con người phải hữu thần hay vô thần?

Cái còn lại là lồ lộ những kinh nghiệm xương máu và sự tự điều chỉnh để mọi tác động vào xã hội con người có thể trở nên đẹp hơn, nhân văn hơn, tử tế hơn. Rất cần một cuộc “giải tri thức” trên bình diện quyền lực tôn giáo và quyền lực chính trị để hướng nhiều hơn vào hạnh phúc con người.

Tại sao tất cả những điều chỉnh mang tính chất đánh mất bản sắc “đặc thù” của kinh Thánh mà các Giáo hoàng đưa ra thì được người tín đồ dễ dàng chấp nhận (nhằm phù hợp với cách nhìn nhận chung của con người về thế giới qua thước đo của ánh sáng khoa học, kỹ thuật). Nhưng tại sao những điều chỉnh của đảng Cộng sản người ta lại bảo nó “mất bản chất” và cứ vin vào tính chất “vô thần” của nó để Công kích? Đã có không ít người Cộng sản theo “chủ nghĩa xét lại” phê bình Marx và Lê Nin, và có không ít người theo đạo Công giáo bỏ đạo và viết lại những sự thật bẽ bàng trong Kinh thánh và trong lịch sử Giáo hội…, nhưng Cộng sản vẫn là Cộng sản, Thiên Chúa giáo vẫn là Thiên Chúa giáo, chỉ có kinh nghiệm lịch sử là dày lên và sang trang trước những đổi thay và điều chỉnh của chính họ.

Người theo Cộng sản phải bám vào “chủ nghĩa cộng sản” và họ điều chỉnh thế nào thì cũng đã rõ qua hình ảnh Trung Quốc và Việt Nam. Cũng như thế, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa học về vũ trụ, Giáo hoàng John Paul II đã gần như bác bỏ những tín lý quan trọng của Giáo hội khi tuyên bố: "Thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này”. Thế thì còn có chuyện “người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”?

Công giáo Việt Nam bị Cộng sản chèn ép. Quá khứ Phật giáo bị “chèn ép” bởi Nho giáo, cũng như khi Phật giáo làm quốc giáo, nhiều nhà Nho cũng cảm thấy bị chèn ép. Nhưng chúng ta may mắn vẫn còn lịch sử để hiểu được những tư tưởng khoan dung mà ông cha ta đã khổ công điều chỉnh như thế nào. Rõ ràng Cộng sản đang nỗ lực điều chỉnh mình theo hướng tích cực. Họ đã thừa nhận sai lầm và đang tích cực sửa sai, điều chỉnh. Nơi này nơi kia có xảy ra những bất như ý cũng là vì “phép vua thua lệ làng”, không thể vì một bà già tụt quần phản đối mà bảo nhà nước Việt Nam là đàn áp con người. Vậy phải chăng tất cả các nước đã đặt quan hệ ngoại giao và đang rất muốn đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam là mê muội chăng?

Về bản chất, không có tôn giáo, tư tưởng nào tách rời khỏi cái đạo “tương quan”. Thiên Chúa giáo vào Việt Nam ngay từ thời buổi đầu đã áp dụng triệt để chích sách đồng hóa, dẹp bỏ hết ông bà tổ tiên, thần Phật. Đó là sự thống nhất của một chính sách mà tất cả các tín ngưỡng “đa thần”, “hỗn dung” của nhiều dân tộc thuộc địa bị áp bức một cách không thương tiếc. Liệu những dữ liệu lịch sử ấy có chứng minh sự “độc tài” mà có khi mọi thể chế “độc tài” cũng phải chắp tay bái làm sư phụ không? Cộng sản thì “độc tài” đến nỗi đảng viên Đảng Cộng sản vẫn chưa bằng số lượng tín đồ Công giáo, đến nỗi Lễ Giáng sinh có thể tưng bừng khắp đường phố, réo rắt suốt ngày trên truyền hình tại Việt Nam.

Nếu có thể có một so sánh thì thiết nghĩ trong những “sai lầm gần và xa” Cộng sản vẫn còn có chỗ hơn, bỏ xa Công giáo.

Và trong liên hệ tôn giáo, không có sự việc nào buồn cười hơn sự độc tôn quyền lực của đạo Chúa ở Việt Nam khi chiếm phá không ít chùa chiền mà một số cơ ngơi to lớn (tài sản của Giáo hội) hiện nay là do cưỡng chiếm của Phật giáo mà có. Nay hai từ “đòi” được nhắc đến một cách bình thản. BBC Việt ngữ gần đây không những đưa tin Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt sang Đức tuyên bố “nhất định đòi tòa khâm sứ” mà còn vận động giám mục ở Roma, Singapore ủng hộ việc “đòi” đất ở Việt Nam. Đó là bước đi “truyền thống” mà Công giáo vẫn luôn muốn áp dụng sao?

Nhìn vào những diễn biến tôn giáo vừa qua: “Cầu nguyện đòi đất”, “Vesak Liên hợp quốc tại Hà Nội”, “Phái đoàn Vatican sắp viếng thăm”, “Tái khẳng định nhất định phải đòi cho bằng được Tòa khâm sứ của TGM Ngô Quang Kiệt” (bất chấp Phật giáo đã có phản ứng) mới thấy rằng cái bừng lên của Phật giáo trong Vesak từ trong dân gian mới thực sự là một “cán cân” để các bên cân nhắc.

Vesak 2008 của Liên hợp quốc bị những người Công giáo quá khích, những người chống Cộng sản vin vào một vài phát biểu phiến diện nào đó để cho rằng Vesak bị chính trị hóa, còn chuyện Phái đoàn Vatican sắp sang Việt Nam để thương lượng về bình thường hóa và chuyện “nhất định đòi Tòa khâm sứ” thì là chuyện “thuần” tôn giáo.
Chống Cộng sản, chống Vesak Liên hợp quốc, chống Giáo hội Phật giáo Việt Nam có làm cho Cộng sản “yếu” đi không?

Có thể nói, Cộng sản đang yếu khi vẫn chưa có những nhân tài vượt trội để sửa “kinh thánh” Cộng sản. Và Cộng sản đang yếu vì không có những người có thể đi tù thay cho người khác, giống như phát biểu của TGM Ngô Quang Kiệt. Nhưng có một điều Cộng sản không yếu đó chính là “vô thần”. Phật giáo cũng bị Giáo hoàng John Paul II chỉ trích là “vô thần”, vì Phật giáo phủ định Thượng đế sáng tạo (độc quyền sáng tạo), trong hai khách thể thiên đàng (của Chúa) và địa ngục (của Quỷ dữ). Nhưng Phật giáo vẫn đang phát triển mạnh, không phải để ý tới chuyện thế giới ưa “vô thần” hay hắt hủi “hữu thần”.

Có thể nói, người cộng sản nào xem vô thần là một cái yếu, người cộng sản đó đang tự giết chết mình. Công nhận ngày giỗ tổ Hùng Vương là quốc lễ có làm cho Cộng sản yếu đi không? Xây bao nhiêu nghĩa trang liệt sĩ, đài tượng niệm khói hương và cầu siêu quanh năm có làm cho Cộng sản yếu đi không? Bao nhiêu tượng ảnh Hồ Chủ tịch được thờ chung trong đền miếu có làm cho Cộng sản yếu đi không? Mâu thuẫn là “động lực của phát triển” thì có gì mâu thuẫn trong việc “vô thần” hay “thờ cúng”.

Thử hỏi có tôn giáo nào có nhiều thần (như trong kinh điển Phật giáo miêu tả) và chấp nhận nhiều thần bản địa bằng Phật giáo, khi Đức Phật có thể ngồi chung với Đế Thiên, Đế Thích, Thái thượng lão quân, Nam tào Bắc đẩu, thậm chí ông bà tổ tiên của mỗi dòng họ không? Có tôn giáo nào nói về hình ảnh giống như Bồ tát, có thể hiện thân ngoại đạo để hóa độ chúng sinh không? Vậy cái “vô thần” hay “hữu thần” cuối cùng chỉ là cái ngoan ngoãn chấp nhận hay không chấp nhận một Thượng đế toàn năng theo phóng ảnh của con người.

Trong lịch sử, Nho giáo vốn là một hệ tư tưởng chính trị xã hội, nên nho sĩ thường công kích Phật giáo là dị đoan, thờ cúng, nhưng tại sao Nho giáo phải làm một cuộc điều chỉnh rất lớn khi vay mượn nhiều phạm trù triết học Phật giáo đẩy yếu tố “mệnh trời” lên mức hình nhi thượng. Tống Nho là một điển hình. Quá khứ lịch sử đã từng có xu hướng “cư Nho mộ Thích”. Hiện tại có xu hướng “cư khoa học mộ Thích”. Vậy không thể có “cư Cộng mộ Thích”, “cư Chúa mộ Thích” hay sao?

Vấn đề cuối cùng là nỗ lực điều chỉnh để tồn tại của mỗi tôn giáo, tư tưởng, nên người Công giáo Việt Nam mới có thể thờ ông bà, dựng tượng Đức Mẹ mặc áo tứ thân và đội khăn đống, và người Cộng sản mới biết thắp hương cúng bái. Nếu yếu tố điều chỉnh đó đi đến mục tiêu ích mình, lợi người và đem đến hạnh phúc cho số đông thì sự điều chỉnh đó là cần thiết.

Và Phật giáo trong tương lai nào đó có thể sẽ không còn những thầy tu mặc áo cà sa, đầu cạo trọc, cho đến cái gọi là giáo hội, tổ chức… nhưng ai có thể phát biểu giáo lý “sắc tức thị không, không tức thị sắc” người đó là hiện thân của Phật và Bồ tát. Và chỉ đơn giản thôi, ai có thể nói “gây nhân thì phải trả quả”, người đó đang nói lời nói của mười phương ba đời chư Phật. Đơn giản thôi, ai có thể nói đến tính vô thường của vạn vật thế gian là người đó đang nói đến chân lý mà Đức Phật đã nói.

Nếu không có cái gọi là “một” thì làm gì có cái “hai”, “ba”, “bốn”…, nhưng tất cả quy về “một” rồi thì “một” quy về đâu? Chúng ta phải hóa giải cảnh sống của mình trong những điều kiện “một”, “hai” hay là vân vân gì đó. Vì chẳng có cái nào là cái “tuyệt đối” trong cái nhân gian bé tí này.

Đức Phật nói Niết bàn vì thế gian còn quá nhiều đau khổ, Đức Phật nói vô ngã vì chúng sinh còn quá nhiều ngã chấp. Thế nên tất cả sẽ trở nên vô nghĩa lý nếu chỉ có vế này mà không có vế kia của vấn đề trong cuộc sống của chính con người.

Nguyễn Mai Sơn

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2008

CÔNG BẰNG DÂN CHỦ DƯỚI CON MẮT PHẬT GIÁO


Tác giả bài viết là là GS. Cao Huy Thuần - GS Đại học tại Pháp. Ông vừa là một trí thức có nhiều tác phẩm được ưa chuộng ở trong nước, vừa là một Phật tử có uy tín lớn trong giới Phật giáo. Với tư cách đó, ông đã đọc bài diễn văn sau đây trong Đại Lễ Phật Đản 2008, trước hàng ngàn người tại quảng trường Thương Bạc, TP.Huế.

Từ hơn bốn mươi năm nay, chưa bao giờ Việt Nam đứng ra tổ chức một lễ Phật Đản lớn về tất cả mọi mặt: tôn giáo, văn hóa, xã hội, và về cả chính trị như lần này. Nói lớn về cả chính trị là bởi trong ba ngày vừa qua, thủ đô Hà Nội là thủ đô Phật giáo của thế giới.

Nhân sự kiện này, cả thế giới đều biết Việt Nam. Nhưng Việt Nam được biết đến chỉ là một nước đã đi qua chiến tranh, cũng không phải chỉ là một nước đang trên đà phát triển kinh tế: Việt Nam sáng lên như một nước có văn hiến, có bản sắc, trong một thế giới mà nhiều người cho là đang đi đến đồng bộ. Như vậy, chẳng phải là một thắng lợi chính trị của Việt Nam hay sao?

Năm ngoái, Thái Lan đã được vinh hạnh tổ chức ngày Đại Lễ này, và ngày đó, năm ngoái, trùng hợp với ngày nhân dân Thái ăn mừng thượng thọ Nhà Vua 80 tuổi.
Năm nay, ngần ngại gì mà ta không nói: Ta tổ chức Phật Đản và ăn mừng chiến thắng chính trị và văn hóa của nước ta?

Trong Ngày Trăng Tròn năm nay, Huế tiếp nối Hà Nội, cùng với cả nước, là thủ đô của thế giới Phật giáo. Hà Nội vừa biểu dương khí thế chính trị và văn hóa của nước, nay đến lượt Huế biểu dương khí thế tôn giáo và văn hóa của dân.

Đất cố đô và cả nước ta bày ra cho thế giới thấy một xã hội tôn giáo đầy chất sống, rực rỡ màu sắc, sẵn sàng tạo hậu thuẫn cho một Nhà nước "vì dân, từ dân, lấy dân làm gốc".

Chính trong tinh thần đó mà tôi hân hoan chào mừng sự hiện diện của chính quyền trong Ban tổ chức Đại Lễ Phật Đản 2008. Tôi không xem đây như việc chính quyền xen vào nội bộ tôn giáo. Đặc biệt, tôi xem đây như một việc làm rất có ý thức, thể hiện điều tôi vừa nói: Nhà nước và Phật giáo cùng tổ chức ăn mừng chung một thắng lợi chung, một ngày rực rỡ chung.

Ngày Phật Đản của LHQ 2008 năm nay nói lên 3 sự kiện nổi bật. Một, là Phật giáo nói chung lớn mạnh trên thế giới. Hai, là Việt Nam lớn mạnh trên thế giới. Ba, là Phật giáo Việt Nam lớn mạnh trên thế giới.

1. Phật giáo lớn mạnh trên thế giới
Phật giáo lớn mạnh, trước hết là vì bản chất của Phật giáo. Phật giáo mang đến giải pháp cho con người, con người nói chung, chứ không phải riêng gì cho người xứ này xứ nọ. Không như Ấn Độ giáo chỉ liên quan đến người Ấn, Thần giáo chỉ liên quan đến người Nhật, hoặc Do Thái giáo chỉ liên quan đến người Do Thái... Trái lại, đã là người thì ai cũng có thể đón nhận thông điệp của Đức Phật.

Phật giáo lớn mạnh, thứ hai, là vì bản chất của chính thông điệp Phật giáo. Chiến tranh, hận thù, nghèo đói, bạo lực, áp bức, thời nào cũng có, nhưng thời nay, với phương tiện truyền thông nhanh như chớp, bao nhiêu hiện tượng đó nằm ngay trước mắt bất cứ ai, dù không phải là nạn nhân.

Nạn nhân khổ đã đành, người xem cảnh khổ trên màn ảnh cũng không thể không suy tư về cái khổ. Cái khổ diễn ra muôn hình vạn trạng. Ở xứ nghèo, khổ vì đói. Ở xứ giàu, khổ vì cô đơn, vì bất an trong nghề nghiệp, vì lạnh lẽo trong gia đình, vì mất an ninh trong xã hội, vì bị đe dọa ngay cả trong thức ăn và không khí, vì mất phương hướng trong cuộc sống.

Và dù giàu hay nghèo, ở đây hay ở đó, nhân loại nói chung, không trừ ai, đều là nạn nhân của một phi lý khiếp đảm, phi lý của cạnh tranh bất chính, bất lương, đưa cạnh tranh lên mức tận diệt môi trường, hủy hoại trái đất, đe dọa đời sống của thế hệ tương lai.

Và như thế để làm gì? Để đè bẹp kẻ khác, để thống trị, để làm bá chủ.
Trước một thế giới bạo lực như vậy, ai có tư duy mà không nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa trong kinh, lửa tham, lửa sân, lửa si? Hiển nhiên, đức Phật nói đến ngọn lửa thiêu đốt trong tâm con người, nhưng lửa đang thiêu đốt thế giới có xa lạ gì với lửa thiêu đốt con người?

Tìm ở đâu cho thế giới hôm nay tiếng nói hòa bình đích thực, thuần khiết, tiếng nói từ bi thuần khiết, đích thực, nếu không phải nơi thông điệp của đức Phật?
Cho nên các tổng thư ký LHQ không ngừng nhắc nhở điều đó mỗi mùa Phật Đản. Họ nói: "Thông điệp đó ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết".

Phật giáo lớn mạnh, thứ ba, là vì con người ngày nay, trong thời hiện đại, gặp nhiều vấn đề tâm linh và tâm lý khó giải quyết và họ tìm được nơi Phật giáo giải pháp thích hợp nhất.

Đó là lý do giải thích tại sao Phật giáo không ngừng lớn mạnh tại Âu Mỹ trong vòng phần tư thế kỷ vừa qua. Khoa học, kỹ thuật đã mang lại cho con người nói chung bao nhiêu lợi ích vật chất, và đã mang lại cho Âu Mỹ trù phú về vật chất, tự do về tư tưởng.

Thế nhưng con người vẫn là con người, nghĩa là vẫn ham muốn vô cùng tận, bao giờ cũng thấy thiếu. Ngày xưa, cái cảm giác thiếu ấy đã khiến con người ở các xứ đó tạo ra thượng đế để lấp vào chỗ thiếu.

Ngày nay, thượng đế ở trên trời không đóng nổi vai trò ấy nữa, một thượng đế khác ở dưới đất thay thế ngay, và một tôn giáo khác điền chỗ vào: ấy là tôn giáo tiêu thụ. Ông thần ấy đánh đúng vào tâm lý thiếu của con người: một nhu cầu được thỏa mãn lập tức biến ngay thành thiếu. Từ nhu cầu căn bản đến nhu cầu hưởng thụ, con người hiện đại chạy theo cái thiếu hụt hơi.

"Cuộc đời là khổ" - Phải hiểu chữ khổ thế nào?
Các bạn trẻ đang nghe tôi nói, một trong những vấn đề làm các bạn khó hiểu nhất khi đến với đạo Phật lại chính là vấn đề căn bản nhất mà nếu hiểu thì cái gì cũng hiểu.
Sau khi chứng ngộ dưới cây bồ đề, đức Phật tuyên bố chân lý đầu tiên: Cuộc đời là khổ. Các bạn đừng hiểu chữ khổ một cách nông nổi, cạn hẹp. Đức Phật đã phân tích trạng thái khổ dưới nhiều dạng khác nhau.

Khổ vì thân xác: đau yếu, bệnh tật, già chết. Khổ vì tinh thần: yêu mà không được yêu, yêu mà phải xa cách, ghét mà phải gần gũi, muốn mà không có được, có mà không giữ được, có mà hóa ra lầm, tưởng thế mà không phải thế ...

Các bạn sẽ nói: Thiếu gì giây phút hạnh phúc! Quả vậy, nhưng hãy chiêm nghiệm mà xem: Hạnh phúc có đấy nhưng đã qua vèo, không có cái gì thường còn trong đời sống này.
Các bạn lại sẽ hỏi: Vậy thì đạo Phật bi quan rồi? Không! Vậy thì đạo Phật lạc quan? Cũng không! Đạo Phật chỉ thấy sao nói vậy. Đạo Phật chỉ vào sự thật mà bất cứ ai biết nhìn, biết chứng nghiệm với chính kinh nghiệm bản thân, đều thấy.

Các bạn lại hỏi nữa: Như vậy đạo Phật không biết đến hạnh phúc hay sao? Đâu phải! Hạnh phúc chính là chuyện mà đạo Phật nhắm đến. Đức Phật nói khổ là để tìm nguyên nhân của khổ, rồi con đường dẫn ra khỏi khổ.

Và tận cùng là gì? Là hạnh phúc! Hạnh phúc thực sự chứ không phải là những thú vui mà ta cứ tưởng lầm là hạnh phúc. Khi ta biết rằng những thú vui rồi sẽ đi qua, đừng chạy theo nó hụt hơi nữa, thì đồng thời ta cũng sẽ thấy cái gì ở lại với ta: Cái đó là hạnh phúc, hạnh phúc thực sự.

Bây giờ, tôi trở lại với con người hiện đại, nhất là tại Âu Mỹ. Ở thành phần trung lưu, thật sự họ có thiếu cái gì đâu! Vậy mà họ cảm thấy thiếu thường xuyên, càng có càng thiếu. Y hệt như người khát nước cứ uống nước mặn, càng uống càng khát.
Cái tâm lý ấy, tình trạng ấy, là tâm lý gì, tình trạng gì? Là thất vọng. Là không thỏa mãn. Bao giờ cũng không thỏa mãn. Có rồi vẫn thất vọng. Đó là cái tâm lý, cái tình trạng mà đức Phật diễn tả trong chữ "khổ".

Khổ ấy mênh mông, mà bây giờ người trung lưu phương Tây thấy rõ hơn ai hết. Các bạn trẻ đừng sợ khi nghe nói: Con người trầm luân trong biển khổ. Cái biển khổ ấy, người phương Tây thấy mình ngụp lặn trong đó, rồi từ đó họ chứng nghiệm thông điệp của đức Phật. Không ai cải đạo họ cả, chính họ tìm đến đức Phật.

Vậy, Phật giáo là đạo của giải thoát, đạo của từ bi, đạo của hòa bình. LHQ tuyên bố như lời Tổng thư ký Perez de Cuellar nói trong ngày Phật Đản 1986: "Triết lý ấy nằm chính trong tim của Hiến chương LHQ và phải được biểu dương trong mọi suy nghĩ của chúng ta".

Với sự lớn mạnh của ảnh hưởng Phật giáo trên thế giới, LHQ bước thêm bước nữa: Năm 1999, Đại hội đồng LHQ biểu quyết công nhận ngày Phật Đản là ngày của quốc tế, được làm lễ kỷ niệm tại trụ sở LHQ và tại tất cả các cơ quan của LHQ.
Từ năm 2000, lễ Phật Đản mỗi năm đều được cử hành trong khung cảnh đó. Năm 2007, đặc biệt lễ Phật Đản trùng hợp với ngày đăng quang thứ 60 và ngày sinh nhật thứ 80 của Nhà Vua, Thái Lan tổ chức "Ngày Phật Đản của LHQ" một cách trọng thể chưa hề thấy. Việt Nam là nước thứ hai sau Thái Lan lãnh vinh dự này năm nay, và Hà Nội, sau Bangkok, trở thành thủ đô Phật giáo của thế giới trong mùa Phật Đản năm 2008. Điều đó thể hiện Phật giáo đang lớn mạnh trên thế giới.

2. Việt Nam lớn mạnh trên thế giới
Không phải tôi bênh gì nước tôi, nhưng tôi phải nói ngay: Việt Nam hơn Thái Lan. Hơn chỗ nào? Ở chỗ Việt Nam là nước đầu tiên, chứ không phải nước thứ hai như tôi vừa nói.

Lý do là thế này: Bắt đầu từ 2005, "Ngày Phật Đản của LHQ" được tổ chức tại Cơ quan châu Á - Thái Bình Dương của LHQ, mà trụ sở đặt tại Bangkok. Như vậy, Phật Đản 2007, tuy trọng thể, vẫn không có ý nghĩa gì đặc biệt đứng về mặt quốc gia đăng cai. Thái Lan vì có trụ sở của LHQ tại kinh đô, nên đương nhiên được hưởng lộc Phật Đản.

Việt Nam, không có trụ sở của LHQ, mà được LHQ trao lộc cho, thế mới đáng nói. Như vậy mà không phải là nước đầu tiên thì là gì?

Chúng ta nên hãnh diện cho đất nước của chúng ta về sự kiện lịch sử này. Bởi trước hết, uy tín của Việt Nam trên thế giới lên cao. Năm qua, Việt Nam là thành viên của Hội đồng bảo an LHQ. Việt Nam đã tổ chức thành công những hội nghị quốc tế quan trọng.

Thứ hai, Việt Nam nhận ra được gốc gác của mình mà ngôn ngữ nhà Phật gọi là bản lai diện mục. Như một người trở về lại nhà mình, Việt Nam tìm lại được bộ mặt thật của Việt Nam. Phật giáo không muốn chiếm độc quyền trong bản lai diện mục đó.

Nhưng hãy xem: ai đã tạo ra văn hóa, ai đã tạo ra đạo đức, ai đã tạo ra tâm hồn cho dân tộc ngày hôm nay? Nhờ đâu mà chúng ta đã không rơi hẳn vào quỹ đạo văn hóa của Trung Hoa, với thầy Khổng, thầy Mạnh, tứ thư, ngũ kinh thuộc lòng như húp cháo của cả tầng lớp nho sĩ nắm quyền?

Nhờ đâu mà chúng ta đã không hướng về phương Bắc để lạy như một thánh địa? Tất nhiên có người sẽ nói: Tại vì chúng ta có văn hóa bản địa. Nhưng văn hóa bản địa thì khó thấy, văn hóa Phật giáo thì sờ sờ trước mắt.

Như một chất xúc tác, Phật giáo đã dung hóa tất cả, góp phần tạo ra bộ mặt văn hiến mà Nguyễn Trải, một người uyên thâm Phật giáo, đã xác quyết ngay trong những câu đầu của Bình Ngô Đại Cáo: "Nước ta là một nước văn hiến".
Để tuyên ngôn độc lập với phương Bắc, Nguyễn Trãi tôn văn hiến lên hàng đầu, văn hóa là linh hồn của một dân tộc.

Bây giờ đây, nước ta đã hết Bắc thuộc, đã hết Tây thuộc, hết chiến tranh, hết ngoại thuộc, bây giờ đây, chủ quyền đã được củng cố, phần xác đã tạm ổn, hãy lo phần hồn cho dân tộc, bởi vì đó mới chính là sức mạnh trường tồn.

Làm nước đầu tiên không có trụ sở của một cơ quan LHQ đăng cai tổ chức Phật Đản, Việt Nam xác nhận long trọng trước thế giới gốc gác của mình và cả hướng đi của mình. Hướng đi đó mở ra một chân trời ngoại giao đầy thiện cảm với thế giới và nhất là với lân bang.

Thứ ba, và đây là điểm quan trọng nhất, Việt Nam lớn mạnh cho nên không ngần ngại đối mặt với những vấn đề nhạy cảm nhất của thời đại. Đó là những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong chính chủ đề của "Ngày Phật Đản của LHQ 2008". Chủ đề của LHQ ghi rõ: "Đóng góp của Phật giáo vào việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và dân sự".

Vấn đề đặt ra trong ngày lễ trọng đại như thế này, trên đà tiến như thế này của đất nước, chúng ta có bổn phận phải trả lời như một người trưởng thành.

Cái nhìn của đức Phật về sự công bằng của con người
Muốn trả lời câu hỏi "Thế nào là công bằng trước mắt Phật giáo?" một cách cụ thể, không gì bằng nhìn hình ảnh của chính đức Phật và xã hội chung quanh Ngài.

Thầy và trò sống như nhau, không khác: một bình bát, ba tấm y. Trò đi khất thực, Thầy cũng đi khất thực, Thầy cũng bưng bình bát đứng trước cửa nhà dân, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Thầy không bắt trò mang thức ăn về cho mình, Thầy đội chung giờ ngọ và mặt trời trên đầu cùng với trò. Hành động khất thực cũng là một hành động công bằng: ở đây không có kẻ xin người cho, ở đây ai cũng cho, một bên cho thực phẩm, một bên cho phước đức. Đức Phật tự mình đi khất thực, chính cũng vì muốn cho, tự mình cho, và đức Phật mà cho thì phước đức lớn không lường được. Công bằng là như vậy: không phải chỉ biết đòi mà còn biết cho.

Trong một xã hội mà ai cũng chỉ đòi, không ai biết cho, thì dù xã hội đó có thực hiện được công bằng đi nữa, trước sau gì cũng mất tự do.

Công bằng nằm trong cái nhìn của đức Phật về con người: con người ai cũng có Phật tính như ai, cho nên mọi sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, giai cấp, đều không có nghĩa.

Ngài A Nan, đại đệ tử của Phật, đã nói một câu nhẹ nhàng mà triệt để cách mạng với cô thiếu nữ hạ tiện không dám múc nước giếng dâng ngài, sợ bàn tay hạ tiện làm bẩn nước: "Tôi xin nước chứ không xin giai cấp".

Tôi kể thêm: ai cạo tóc cho đức Phật? Bác thợ cạo Upali, giai cấp hạ tiện! Vậy mà bác cũng đã trở thành đại đệ tử, bác đã chứng A-la-hán!

Nhưng công bằng có phải là ai cũng ngang nhau, bằng nhau tuyệt đối hay không? Chắc chắn là không, không bao giờ có tình trạng đó. Đức Phật thấy ai cũng có Phật tính như ai, nhưng Ngài cũng thấy ai giác ngộ sớm hơn ai. Gặp người đã chín muồi giác ngộ, dù người đó là tướng cướp, Ngài chỉ dạy thêm một lời là người đó chứng A-la-hán.

Trong hàng đệ tử của Ngài, đâu có phải ai cũng là A-la-hán? Ngang nhau nhưng không giống nhau, bình đẳng nhưng không đồng đẳng, đó là căn bản của công bằng.
Bởi vậy, sự phân biệt duy nhất trong Phật giáo giữa người với nhau là sự phân biệt dựa trên khả năng giải thoát, dựa trên đức hạnh.

Ngang nhau nhưng không giống nhau
Luật của nhà chùa y theo quan niệm công bằng như thế mà xử. Người có đức hạnh lớn không bị xử ngang hàng như người có đức hạnh nhỏ. Tỷ như bỏ một nắm muối vào chén nước, nước mặn uống không được; bỏ nắm muối vào chum nước, nước uống được, chẳng sao.

Người ít đức thiện ví như chén nước: nếu người ấy làm thêm một điều bất thiện nữa, nào có khác gì bỏ muối vào chén. Người có nhiều đức thiện, ví như nước trong chum, lỡ lầm làm một điều bất thiện, muối ấy đâu có làm mặn nước.

Đó là phẩm "Hạt Muối", áp dụng trong luật nhà chùa. Ngang nhau nhưng không giống nhau. Tất nhiên, đây là tội về đức hạnh, không phải tội ngoài đời.

Áp dụng quan niệm ấy vào đời trong tình trạng bất bình đẳng giàu nghèo tàn nhẫn hiện nay, tất nhiên Phật tử chúng tôi đau xót cho tình trạng bất nhẫn này và mong được cải thiện, nhưng chúng tôi cũng đi đến cùng một kết luận với nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt khi ông viết gần đây: "Kinh nghiệm sau hơn hai thập kỷ đổi mới cho thấy, không thể có "công bằng" đúng nghĩa trong một xã hội mà tất cả đều nghèo. Cũng không thể "cào bằng" bằng cách "điều tiết" hết lợi ích của người giàu để chia cho người nghèo. Xã hội sẽ không phát triển nếu không có chính sách kích thích một bộ phận dân chúng vươn lên làm giàu chính đáng".

Công bằng là như thế. Là Nhà nước phải giải phóng những lực lượng nào có khả năng làm phát triển đất nước, đừng kìm hãm họ lại.

Những lực lượng đó, hiện nay có hai: Một là doanh nhân tư nhân độc lập, hai là trí thức. Một bên là của cải lương thiện, một bên là cái đầu sáng tạo. Không có hai lực lượng đó, Âu châu đã chẳng bao giờ làm được cách mạng kỹ nghệ và thế kỷ Khai Sáng, đưa họ lên địa vị hàng đầu thế giới.

Lãnh đạo: Càng đo càng cao
Tôi chỉ xin mượn câu viết của ông Võ Văn Kiệt để nói thêm một lời về lãnh đạo. Dân thường nghe nói: lãnh đạo phải cao hơn người khác một cái đầu. Quá đúng!

Thế nhưng, cao hơn một cái đầu không có nghĩa là mình cứ lùn và đè đầu mọi người khác xuống để mình cứ cao hơn. Thế nào là lãnh đạo cao hơn một cái đầu?

Tôi lại kể chuyện Phật. Có một người Bà la môn nghe nói thân Phật cao 1 trượng 6 thì không tin, bèn vào rừng chặt một cây trúc dài để đem đến đo Phật. Ông càng đo thì Phật càng cao. Vác cái thang đến, leo lên thang để đo, vẫn thế, sào cao đến đâu, Phật cao hơn sào đến đó. Lãnh đạo là như vậy, là tự mình cao mãi hơn, cao hơn cả chính mình, cao về tài năng, cao về đạo đức. Đó là công bằng.

Dân chủ là "tự tứ"
Bây giờ là dân chủ. Tôi lại kể chuyện đức Phật. Luật của nhà chùa buộc tăng ni phải họp nhau có định kỳ để chỉ lỗi cho nhau và để sửa lỗi. Luật đó có từ lúc nào? Có từ đời đức Phật.

Cứ sau ba tháng an cư, Phật lại họp tăng chúng để "tự tứ", nghĩa là để sửa lỗi cho nhau và cùng sám hối lỗi.

Phật trải tọa cụ ngồi giữa khoảng đất trống, tỷ kheo ngồi chung quanh. Phật hỏi tăng chúng : « Hôm nay tôi tự tứ: Tôi có lỗi với ai không? Thân, miệng, ý của tôi có phạm lỗi gì không?".

Phật hỏi ba lần như vậy. Đã ai thấy một vị giáo chủ của một tôn giáo nào có tư tưởng, hành động và tập quán như vậy chưa? Lãnh đạo mà cư xử như thế, thế gian cũng không thấy.

Từ đó suy ra: Dân chủ là lãnh đạo không phải chỉ thường xuyên biết nghe ý kiến của dân, mà còn tổ chức, thành lập, áp dụng định chế để dân chỉ lỗi, sửa lỗi. Phát triển ý đó, thiếu gì biện pháp để thực hiện dân chủ!

"Vua đừng chống lại ý của dân" - ấy mới là dân chủ
Tôi lại kể thêm chuyện đức Phật. Trong "Mười bổn phận của vua" mà Ngài khuyên, điều thứ 8 nguyên văn như sau: "Kiên nhẫn, biết tha lỗi, khoan dung, hiểu biết. Vua phải có khả năng chịu đựng những thử thách, những khó khăn, và những lời nhục mạ mà không giận".

Nhục mạ mà còn không giận, huống hồ chỉ là phê bình, chỉ trích! Chỉ là phê bình, chỉ trích xây dựng!

Điều thứ 10 nói tiếp theo: "Không chống lại, không làm bế tắc. Nghĩa là vua không được chống lại ý muốn của dân, không ngăn cản một biện pháp nào có lợi cho hạnh phúc của dân chúng. Nói một cách khác, vua phải hòa hợp với dân". Đó là nguyên văn điều 10.

Từ đó mà suy ra, cũng không thiếu gì biện pháp để cụ thể hóa lời khuyên "đừng chống lại ý muốn của dân". Chỉ chừng đó thôi, chừng đó thôi, quá đủ để thực hiện dân chủ mà không cần phải vay mượn lý thuyết của ai, dưới áp lực của ai, từ chân trời nào khác.

Tinh hoa của đạo Phật là chống giáo điều
Nhưng muốn nói thêm nữa thì tôi kể thêm. Lúc nhập diệt, Phật không chỉ định ai để thay thế Ngài thống lĩnh tăng chúng. Ngài nói: "Sau khi ta nhập diệt, hãy lấy Pháp và Luật làm Thầy". Pháp là lời Phật dạy.

Giới luật là đạo đức và luật áp dụng trong đời sống của tăng ni. Ai nghiên cứu giới luật của Phật giáo đều ngạc nhiên về tính cách dân chủ trong đó.

Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điểm này thôi: lấy Pháp và Giới Luật làm thầy nghĩa là gì? Nghĩa là bản thân của lãnh đạo cũng chịu ở dưới Pháp và dưới Luật như tất cả mọi người. Ngôn ngữ ngày nay gọi đó là "Nhà nước pháp quyền", điều kiện tất yếu của dân chủ.

Tôi nói thêm nữa. Tinh hoa của đạo Phật là gì? Là chống giáo điều. Tinh hoa ấy toát ra từ mỗi lời dạy của đức Phật.

Bài kinh Kalama chẳng hạn đã làm thế giới kinh ngạc về tư tưởng chống giáo điều, chống việc tin mà không hiểu. Phật dạy: Đừng tin bất cứ ai, bất cứ điều gì mà tự mình không hiểu rõ. Thậm chí Phật còn dạy một vị tăng phải quan sát, xem xét chính Ngài thật kỹ cho đến khi nào hoàn toàn được thuyết phục. Hiểu cho rõ rồi mới tin.
Cho đến phút cuối, trước khi nhập diệt, Phật còn khuyến khích đệ tử hỏi những chỗ nào chưa hiểu rõ trong giáo lý của Ngài để Ngài giảng lại lần cuối. Không ai hỏi, Ngài thúc: "Nếu vì kính trọng ta mà không ai tự mình đặt câu hỏi, cứ nhờ người khác hỏi thế cho".

Cái gì chứa đựng trong những câu nói đó? Không phải chỉ là tự do tư tưởng mà còn là tư tưởng rốt ráo về tự do, tư duy rốt ráo về tự do: Đó là tự do căn bản, tự do nằm trong tinh túy của mọi nền dân chủ. Không thể có dân chủ nếu ta bị bắt buộc phải nghe mà không tin, nghe những điều mà ta thấy là không đúng, là trái với sự thực trước mắt. Cũng không thể có dân chủ nếu ta buộc người khác không được nói.

Đức Phật căn dặn trước khi nhập diệt: "Hãy đặt câu hỏi!". Đặt câu hỏi, tức là thúc dục người khác nói. Và người khác dám nói là vì ta biết nghe. Nghe và nói trong tinh thần đó tức là khoan dung, và cả thế giới đều xưng tụng tinh túy khoan dung trong giáo lý của Phật. Tinh thần khoan dung đó, văn hóa khoan dung đó, vua A Dục ngày xưa đã cho khắc vào trụ đá vá áp dụng triệt để.

Vua A Dục là Phật tử thuần khiết, vậy mà dưới triều đại A Dục, mọi tôn giáo đều được tôn trọng trong vương quốc rộng lớn của vua. Ông không tuyên truyền. Ông không nhồi sọ. Đức Phật không bao giờ phán. Bất cứ ai đến chất vấn, Ngài đều dùng đối thoại để thuyết phục. Phật là ông thầy giảng bài một cách khoa học.

Chừng mực, vừa phải cũng là căn bản của đạo Phật
Tôi lại xin nói thêm nữa, và đây cũng là căn bản của đạo Phật. Giáo lý của đức Phật dạy sự chừng mực, vừa phải. Mà vừa phải, chừng mực, là căn bản của dân chủ. Bất cứ sự thái quá nào đều làm hỏng dân chủ.

Tự do thái quá thì hỗn loạn. Tập trung quyền lực thái quá thì chuyên chế. Dân chủ là tránh cả hai thái cực, và tránh như thế nào là tùy óc sáng tạo của mỗi dân tộc. Dân tộc ta có văn hóa Phật giáo, văn hóa ấy phản ánh hình ảnh của đức Phật trước giờ chứng ngộ.

Phật từ bỏ lối tu ép xác, nhận bát sữa cúng dường của cô gái chăn cừu, xuống sông tắm, rồi lên ngồi dưới cây bồ đề. Bát sữa đã giúp Ngài tĩnh tọa cho đến khi Ngài chứng ngộ chân lý. Sau này, có lần Phật nói với một người đang đói hãy đi ăn cho hết đói rồi Ngài mới giảng cho.

Trong lý thuyết, cũng như trong tu tập, đạo Phật không bao giờ cực đoan, trung đạo là con đường Phật dạy do chính kinh nghiệm chứng ngộ của Ngài. Trung đạo của Phật giáo, đó cũng chính là nền tảng của dân chủ.

3. Phật giáo Việt Nam lớn mạnh
Chúng ta đang lớn mạnh, không phải chỉ vì số chùa chiền được xây nhiều, xây to hơn. Nếu như vậy mà lớn, thì đó là lớn vỏ, lớn xác, không lớn cái hồn. Chúng ta đang lớn, kể cả phần hồn, và khí thế ngày hôm nay chứng minh sự xác quyết đó.

Phật Giáo chúng ta lớn trong xã hội nào? Không phải trong xã hội chính trị mà ta không ham. Chúng ta lớn trong xã hội dân sự. Xã hội chính trị là xã hội quyền lực. Xã hội dân sự là xã hội của dân gian.

Phật giáo không làm chính trị và không bao giờ muốn dính dáng đến chính trị với nghĩa quyền lực. Phật giáo chỉ muốn sống với dân. Giữa xã hội chính trị và xã hội dân sự, đường phân chia rạch ròi hay không là tùy theo chế độ chính trị của mỗi nước.

Ở nước ta, đường phân chia đó không rạch ròi, nhưng chắc chắn càng ngày càng sẽ rạch ròi hơn. Mặt Trận Tổ Quốc *MTTQ) chẳng hạn là cơ quan của xã hội chính trị, nhưng có trách nhiệm quan hệ với xã hội dân sự. Ở đây, chúng ta không đề cập đến vấn đề trọng đại này.

Ở đây, chúng ta chỉ muốn nói: Dù có MTTQ hay không, Phật giáo chỉ có một con đường duy nhất thôi là trung thành với Nhà nước Việt Nam, phụng sự dân chúng. Có hay không có MTTQ, nhiệm vụ của Phật giáo bao giờ cũng vẫn thế: Phát triển văn hóa dân tộc, chấn hưng đạo đức, làm nhẹ nỗi khổ của cô quả, nghèo đói, bệnh tật.

Thế nào là văn hóa dân tộc? Thế nào là đạo đức dân tộc ? Để cho các nhà học giả thông thái tranh luận với nhau, chúng ta chỉ cần nói với họ thế này: điều gì mà chỉ cần bật ra một tiếng là dân gian hiểu ngay và nhận ra ngay rằng đó là tư tưởng của chính mình, dù là người dân ít học nhất, điều ấy nằm trong văn hóa của dân tộc, đạo đức của dân tộc.

Điều gì vậy? Một ví dụ thôi: Ba chữ tham sân si. Nói ra, ai cũng hiểu, ai cũng nhận, ai cũng nghĩ là chân lý. Lúc trước, tôi có nhắc đến bài kinh "Ngọn lửa". Lửa gì đang đốt cháy thế giới ? Lửa chiến tranh, lửa hận thù, lửa bạo lực, lửa cuồng tín, lửa tiêu thụ chủ nghĩa. Dân ta nói gọn : lửa tham sân si. Là vì tư tưởng ấy của Phật giáo đã thấm sâu vào đầu của dân ! Cái gì cắt nghĩa tham nhũng, cái gì cắt nghĩa tình trạng giàu nghèo chênh lệch tàn bạo hiện nay, cái gì cắt nghĩa những cản trở trong phát triển? Dân ta nói gọn: Tham Sân Si.

Vậy thì Phật giáo làm gì? Đời đời kiếp kiếp làm mỗi cái chuyện dẹp lửa ấy mà thôi. Dẹp lửa ấy trong lòng chính mình. Dẹp lửa ấy trong vòng nội bộ. Dẹp lửa ấy trong lòng xã hội.

Chúng ta làm công việc ấy càng độc lập càng tốt. Chính quyền càng nên ủng hộ chúng tôi độc lập. Bởi vì chúng tôi không có tham vọng chính trị. Bởi vì chúng tôi không nhận lệnh từ một thánh địa quyền lực nào.

Độc lập, chúng tôi sẽ giải quyết được những mâu thuẫn nội bộ. Can thiệp, lửa tham sân si từ bên ngoài càng bén vào mâu thuẫn giữa chúng tôi, không có lợi cho chính quyền, cũng không có lợi cho xã hội. Chúng tôi tốt thì chính quyền tốt, xã hội tốt. Chúng tôi xấu thì cả đất nước này sẽ mất phần hồn.

Trong Phật giáo có một tín ngưỡng cũng đã thấm vào ngôn ngữ và tư tưởng của dân gian: tin có hộ pháp. Hộ pháp bảo vệ cho chùa. Hộ pháp bảo vệ cho chánh pháp. Hộ pháp bảo vệ cho những nơi chốn linh thiêng.

Đứng trong xã hội dân sự, Phật giáo là hộ pháp của Nhà nước để Nhà nước thực sự xứng đáng là Nhà nước của dân. Trong lịch sử đã thế, ngày nay lại càng phải thế. Một nhà lãnh đạo có tầm cỡ lớn sẽ không nhìn Phật giáo như bất cứ đoàn thể quần chúng nào.

Phật giáo không phải là một đoàn thể, lại càng không phải là một phong trào. Phật giáo là hộ pháp của Nhà nước, một Nhà nước hết lòng lo cho dân. Phật giáo làm nhiệm vụ mà Bình Ngô Đại Cáo đặt ngay nơi câu đầu tiên: Nhiệm vụ an dân, "việc nhân nghĩa cốt ở an dân". "Quốc thái dân an" là nhiệm vụ của Phật giáo từ những bước đầu của lịch sử.

Hôm nay, chúng ta đi trong ánh nến từ Diệu Đế đến Từ Đàm là để nhắc nhở cho tất cả và cho chính chúng ta nhiệm vụ thiêng liêng đó. Chúng ta là hộ pháp. Chúng ta phải hiểu chúng ta là như thế để đừng làm nhục vai trò đó của tổ tiên.
Và như vậy, chúng ta, hôm nay, hãy cùng với chính quyền, tay trong tay, ăn mừng "Ngày Phật Đản của LHQ 2008".

Cao Huy Thuần

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2008

“MỘT CÕI NIẾT BÀN TRONG THẾ GIỚI HIỆN THỰC” *


Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2008 được tổ chức tại Việt Nam đã thành công viên mãn, vượt xa sự mong đợi của người Phật tử. Sự thành công đó khẳng định sức sống của Phật giáo Việt Nam. Sức sống ấy được tiếp nối trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, không bị giới hạn dưới bất cứ hình thức tên gọi tổ chức nào khác mà người ta cố tình gán cho nó bằng những ý đồ chính trị bất ổn, nhằm chia rẽ tinh thần Phật giáo Việt Nam.

Có thể nói chưa bao giờ sự khẳng định những giá trị đạo Phật lại cụ thể bằng lúc này. Thế giới tôn vinh những giá trị thiết thực của đạo Phật. Nhà nước Việt Nam hiện tại tiếp thêm sự khẳng định đó bằng việc đứng ra đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc. Đó là một niềm vinh dự và tự hào của bất cứ ai có nhân duyên được tiếp xúc và thực hành theo những lời dạy của Đức Phật, được trở thành người Phật tử, và đó cũng là niềm vui chung của những ai không theo đạo Phật (dưới danh phận tín đồ) nhưng nhận thức được những giá trị tốt đẹp phổ biến trong xã hội, không bằng con mắt định kiến tôn giáo hay chủ nghĩa gì đó.

Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc bao gồm đại sứ của các quốc gia (đa chủ nghĩa, đa đảng phái, đa tôn giáo) đã thống nhất tôn vinh những giá trị đạo Phật, cụ thể bằng việc công nhận ngày lễ Vesak (Tam Hợp) vào tháng 5 làm ngày lễ văn hóa - tôn giáo của thế giới. Đó là một minh chứng rõ nét nhất cho nhận thức trên. Bởi chính đạo Phật đã và đang xóa nhòa những định kiến “tín đồ”, “chủ nghĩa”, nhằm đưa những lời dạy của Đức Phật trở thành phương cách sống ứng xử của nhiều người.

Lịch sử cổ trung đại phương Đông từng xuất hiện tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”, như một mẫu thức khoan dung tôn giáo đặc thù. Và lịch sử tôn giáo hiện đại phương Tây đang viết một cách cởi mở và hào hứng về cách thức truyền đạo của đạo Phật. Những lãnh tụ tinh thần Phật giáo đem đạo Phật vào phương Tây bằng thông điệp khoan dung tôn giáo, kêu gọi hãy chấp nhận đạo Phật như một phương cách sống hữu ích, thân thiện và hòa hợp, không hề khuyến khích bất cứ một sự cải đạo nào. Chính vì vậy, có những người vừa là linh mục, mục sư vừa có thể thực hành 5 nguyên tắc sống của đạo Phật (không giết người, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và sử dụng chất gây say, gây nghiện), thực hành thiền định, thậm chí quy y mà không phải từ bỏ tôn giáo chính của mình, và họ đã có nhiều thăng tiến trong con đường tâm linh. Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và nhiều các vị cao tăng khác trên thế giới đã làm được điều đó và nhiều hơn thế ở phương Tây khi có thể giảng Phật pháp tại nghị viện, công sở, công viên, trường học, nhà tù, thánh đường.

Từ một điểm nhìn tôn giáo, người Phật tử có đủ bình tĩnh để nhìn nhận những thang bậc giá trị đặc thù, trong khi thế giới, theo thói thường vẫn lấy số đông, thậm chí lấy sự cải đổi tư tưởng, sự cải đạo làm đích ngắm cho thước đo “chân lý”. Số lượng người theo đạo Phật có thể thấp hơn số lượng tín đồ của các tôn giáo lớn khác trên thế giới, theo những con số thống kê rạch ròi, cụ thể, nhưng số lượng tín đồ Phật giáo cũng có thể cao hơn nếu người ta có thể nhìn nhận nó dưới góc độ hỗn dung tín ngưỡng, một nét đặc thù trong truyền thống tín ngưỡng tôn giáo phương Đông. Ngay tại Việt Nam, Trung Quốc nếu xét theo các tiêu chí trên thì phải 80% dân số theo đạo Phật và có tín ngưỡng đạo Phật. Nhưng những điều đó cũng sẽ trở nên vô nghĩa nếu những người theo đạo Phật không thể thực hành theo những lời dạy của Đức Phật.
Đức Phật từng nói: “Tin ta mà không hiểu ta tức là bài báng ta”. Có nghĩa rằng đạo Phật không chỉ cần người ta “tin” mà còn cần hơn người ta “hiểu”. Tin và hiểu phải đi đôi với nhau. Tin để gắn bó, hiểu để thực hành, làm được như vậy thì mới có lợi ích, mới trở thành người Phật tử chân chính.

Trong diễn văn tại Lễ Khai mạc Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phát biểu: “Tôi hy vọng rằng Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc năm nay sẽ là cơ hội tốt để chúng ta tăng cường sự hiểu biết, đoàn kết, cùng nhau hợp tác xây dựng xã hội tốt đẹp, một cõi Niết bàn trong thế giới hiện thực, góp phần ngăn chặn xung đột, hoá giải các cuộc chiến tranh và đẩy lùi các nguy cơ nghèo đói, khổ đau trong đời sống xã hội, đưa con người tới cuộc sống an vui”.

Nói về lợi ích chung của số đông, mọi người đều có quyền và nghĩa vụ để “xây dựng một xã hội tốt đẹp, một cõi Niết bàn trong thế giới hiện thực”, bởi đó là những điểm làm cho con người chúng ta gần nhau hơn. Không ai có thể lạc điệu, đi ngược lại sự tốt đẹp, để ghen tị hay chỉ trích điều đó khi những giá trị của đạo Phật được chọn làm giải pháp hòa bình, hòa hợp, hòa giải từ Liên Hiệp Quốc, và được khẳng định từ trong nhận thức của người đứng đầu quốc gia. Nếu đó là một “nghệ thuật” chính trị, ngoại giao thì chí ít chúng ta còn thấy đó là một nghệ thuật đẹp, không phải là tâm lý, nhận thức và thái độ gây hấn, thù địch và luôn mong muốn xảy ra những bất ổn cho xã hội, nhất là xã hội ấy bao giờ cũng lớn hơn những thiểu số đang nắm quyền, hay những thiểu số đang rắp tâm điêu linh.

Từ phát biểu này, chúng ta chú ý thêm bài viết của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trên Báo Tuổi Trẻ nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2008: “Lo cho con người là một minh triết của Phật giáo Việt Nam”. Trong bài viết, bà Nguyễn Thị Bình đã đặt ra những câu hỏi thiết thực: “Tôi cố gắng tập trung suy nghĩ của mình vào hai câu hỏi. Một là, quan niệm hiện đại nghĩ như thế nào về đạo Phật? Hai là, những giá trị Phật học nào đã đóng góp cho văn hóa Việt có rất nhiều ý nghĩa cho thời hiện đại?”.

Câu hỏi trên đã được bà lý giải một cách rất sáng rõ qua nhận thức của A. Einstein, một nhân cách văn hóa, khoa học vĩ đại của nhân loại.

Bà viết: “Song điều đáng ghi nhận hơn, điều mà bản thân chúng tôi rất tâm đắc là cấp độ thứ ba của tôn giáo. A. Einstein gọi là “Đạo vũ trụ” (tiếng Đức là Kosmiche religionsitat). Tôi chú ý những giải thích sau đây của A. Einstein: “Những bậc thiên tài về tôn giáo của mọi thời đại đều được tôn vinh bằng Đạo vũ trụ ấy - cái đạo không hề biết đến những giáo điều cũng như không biết đến một vị Thượng đế được suy tưởng theo hình ảnh con người”.

Ông nói thêm: “Ai thấu hiểu tính qui luật nhân quả của tất cả hiện tượng thì đối với người ấy, ý niệm về một hình nhân (thượng đế) can thiệp vào diễn trình của thế giới là không thể chấp nhận được - với điều kiện là thật sự coi trọng giả thuyết về tính nhân quả”. Người ta có thể nhận định A. Einstein đã rất đồng cảm với pháp môn thập nhị nhân duyên của đạo Phật. Và chắc chắn với nhiều luận thuyết khác của Phật học mà A. Einstein đã quả quyết rằng: “Những yếu tố của Đạo vũ trụ còn mạnh mẽ hơn nhiều trong Phật giáo”.

Như thế là tôi đã mượn A. Einstein để nói cảm nhận của tôi về tính hiện đại của tôn giáo cũng như vai trò của Phật giáo trong thế giới đang được coi là đã bước vào thời kỳ của xã hội hậu hiện đại này”.

Khi đề cập đến Phật giáo Việt Nam, bà viết: “Tiến trình văn hóa - lịch sử của Việt Nam khẳng định khi truyền vào và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã tạo ra hai hệ quả. Mặt thứ nhất là Phật giáo lan tỏa, thấm sâu và trở nên một thành phần cơ bản và quan trọng của văn hóa Việt. Hệ quả thứ hai là Phật giáo cũng dần định hình bản sắc riêng mang dấu ấn bản địa làm nên một sắc thái riêng biệt của Phật học Việt Nam”.

Và câu hỏi mà bà đặt ra vẫn còn gợi lên nhiều suy nghĩ trước những bất ổn ẩn ngầm từ nhiều phía của xã hội hôm nay: “Nhưng ta phải hỏi tại sao thiền học đời Lý lại quan tâm đến vấn đề con người đến thế? Rõ ràng quốc gia Đại Việt lúc bấy giờ trong bản năng sinh tồn của mình phải tập trung giải quyết ba vấn đề lớn. Đó là vấn đề giữ gìn lãnh thổ trải rộng từ Hoan Ái lên tận biên giới Trung Hoa, vừa mới thống nhất lại chưa bao lâu. Đó là phải xây dựng một chính quyền có vua sáng, tôi hiền, tướng giỏi. Đó là phải nâng cấp và hoàn thiện văn minh Đại Việt”.

Nhà nước rõ ràng đang tìm cách hiểu đạo Phật từ trong bản chất chứ không phải qua một vài nhân vật Phật giáo (chống đối, ủng hộ) hay một vài danh xưng tổ chức (phe phái, chủ nghĩa), mặc dù ở địa phương này, địa phương kia, nhận thức về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc của giới cầm quyền còn đôi phần bất cập. Nhưng người Phật tử Việt Nam vẫn hướng về ngày Đại lễ Phật đản với tất cả niềm tin, sự mong mỏi, và uyển chuyển tháo gỡ từng khó khăn. Sự bừng lên rực rỡ của Đại lễ Phật đản từ khắp các địa phương mà ai cũng thấy mới chính là thành công đáng kể, chứng tỏ sức mạnh tinh thần của Phật giáo trong dân gian, chứ không hoàn toàn ở sự hoành tráng tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình.

Cho nên nếu ai đó cho rằng Đại lễ Phật đản là “Vesak nhà nước” với một thái độ ganh tị và lấy những tin tức phiến diện nào đó để cố tình gây chia rẽ thì xin hãy đọc lại lịch sử Việt Nam, bởi Lễ Phật đản từng là quốc lễ của nhiều triều đại, được đích thân các vị vua Phật tử chủ trì. Nay nhà nước đứng ra tổ chức dù “chính trị” cỡ nào thì cũng là một thành công trong việc nâng cao vị thế của nhà nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Và trong Đại lễ này chỉ có “Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam mới đủ tư cách và thẩm quyền để xác định mối liên hệ nhân quả, sự nhận thức và tương quan giữa phương tiện và mục đích của vấn đề, bởi trên thực tế cả về phía Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã tự trao cho mình một vị thế và trách nhiệm cao hơn” (Nguyễn Sơn Hà, Văn hóa Phật giáo). Nhưng có người đã phung phí sức lực và trí tưởng tượng lo sợ khi Phật giáo Việt Nam được khẳng định ở tầm quốc gia và quốc tế thì sẽ dần đi đến nắm quyền trị thế. Đó là người không hiểu biết gì về lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo Việt Nam. Bởi ngay cả khi Phật giáo làm quốc giáo, người xuất gia chiếm nửa phần dân cư cũng không xảy ra việc thống trị quyền hành và thống trị tâm linh. Lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo luôn thống nhất chỉ ra điều đó.

Nhiều vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam vì niềm vui chung mà không có bất kỳ định kiến nào về giáo hội nọ, giáo hội kia, nên thư mời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được chuyển đến Giáo hội PGVNTN với sự trân trọng. Còn việc tham gia hay không tùy thuộc ở nhận thức và định kiến của mỗi người, không ai ép buộc. Tuy nhiên, nhiều người Phật tử Việt Nam theo Giáo hội PGVNTN đã từ hải ngoại trở về quê hương để chia sẻ niềm vui chung đó với Phật giáo Việt Nam. Đó là tinh thần của người Phật tử Việt Nam. Bởi người Phật tử nào không thể tùy hỷ được với điều đó, người Phật tử ấy đang nuôi dưỡng ba độc tham-sân-si. Và bởi Phật giáo Việt Nam là tinh hoa văn hóa, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Phật giáo Việt Nam không phải là Giáo hội PGVN hay Giáo hội PGVNTN. Phật giáo Việt Nam càng không phải là Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Hòa thượng Thích Từ Nhơn, Hòa thượng Thích Huyền Quang, hay Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Đạo Phật không đề cao quyền lực mà chú trọng đến việc hóa giải trạng thái tham-sân-si nơi mỗi con người. Phật giáo cũng không đề cao tuyệt đối những con người “ưu tú”, “được chọn” vì bản chất Phật giáo quan niệm mọi người đều có Phật tính, người nào tinh tấn người đó sẽ tiến đến quả vị thánh, người nào không tinh tấn người ấy đi xuống trầm luân. Tất cả dựa trên một chu trình hành nghiệp và nhân quả đã gieo trồng trong cuộc sống. Từ quan niệm này mà cửa chùa luôn rộng mở cho bất cứ ai, không phân biệt giai cấp, thành phần.

Phật giáo không làm chính trị nên Phật giáo không phải khổ công đối phó với dụng ý của những người đến với đạo Phật bằng những mục đích khác nhau. Người Phật tử Việt Nam đủ tỉnh táo để biết đâu là ông sư Cộng sản có quân hàm, đâu là ông sư, “Phật tử” mà CIA, Vatican cài cắm, đâu là người đã từng phạm tội cướp của, đã từng sống trong thế giới xã hội đen… Nhưng sức cảm hóa của Phật giáo thể hiện ngay trong chính tinh thần và nếp sống Phật giáo, trong chính nhận thức “y pháp bất y nhân” (y vào giáo pháp không y vào con người) của người Phật tử. Cho nên dù ông sư đó có là ứng cử viên của giải Nobel, dù ông sư đó có học vị tiến sĩ… thì cũng sẽ chẳng có nghĩa gì nếu ông ta nuôi dưỡng tham-sân-si còn lớn hơn cả người bình thường. Chỉ có những ai mưu toan mới phải đề phòng và nghi kỵ lẫn nhau. Còn Phật giáo vẫn là Phật giáo, thuần thiện, không mưu toan quyền lực và bất hại.

Phật giáo lo cho đời sống tinh thần của số đông nên Phật giáo sống chan hòa với dân chúng, đặc biệt với những người cô thế, nghèo khổ, bệnh tật. Nhiều người chỉ nhìn đời bằng vẻ hào nhoáng, sang trọng bên ngoài khi thấy như vậy đã vội nói sao Phật giáo để cho bất cứ ai ra vào chùa cũng được. Nhưng đó chính là nét đặc thù của Phật giáo, bởi vì không kín cổng cao tường nên Phật giáo mới dễ dàng đi vào lòng người, mới không bị tổ chức hóa, mới không bị chính trị hóa. Cứ nhìn vào Văn phòng I (Chùa Quán Sứ, Hà Nội) và Văn phòng II (Thiền viện Quảng Đức, TP.HCM) mà lâu nay mọi người gắn cho nó những từ ngữ không mấy thiện cảm: “quốc doanh” thì sẽ rõ. Người đến chùa không phải xuất trình giấy tờ, không phải đưa thẻ ra vào và không phải bị nhìn người với con mắt dò xét, lạ lẫm như một kẻ khác đạo. Chỉ nội điều đó thôi, đủ thấy Phật giáo không khuyến khích mưu toan chính trị quyền lực, không chạy theo hư danh phù ảo.

Người Phật tử Việt Nam luôn đề cao tinh thần yêu nước thương nòi vì họ hiểu đất nước này là một ngôi nhà chung, vì họ hiểu hạnh phúc hay khổ đau của mọi người là tương quan với nhau.

Mặc dù tính chất xã hội phổ biến của Phật giáo vẫn là luôn luôn đứng về phía niềm vui chung của con người, nên Phật giáo không chinh phục, thống trị hay đồng hóa con người bằng mọi cách, không vì miếng cơm, manh áo, tiền bạc mà giẫm đạp lên truyền thống, tín ngưỡng, phong tục của người khác. Nhưng cái lo trước mắt là nhiều chùa xây cất to mà tâm linh đạo hạnh người trụ trì tại đó chưa to tương xứng. Cái lo tiếp theo là cái lo mà một số chùa đang có dấu hiệu bước vào nơi sang trọng, quyền quý, thượng lưu. Cái lo căn bản là đời sống tu sĩ có nhiều dư dả, lên xe xuống ngựa. Nếu không kịp thời điều chỉnh sẽ dần trở nên tách biệt và phản cảm với quần chúng nhân dân, xa lạ với người nghèo khổ, đánh mất sự dung dị vốn có của Phật giáo.

Có thể nói, kể từ khi Việt Nam độc lập và thống nhất đến nay, trải qua những thời khắc khắc nghiệt của những nhận thức sai lầm, khiếm khuyết về Phật giáo, chưa bao giờ những nhà lãnh đạo Việt Nam có nhiều sự tin tưởng, khẳng định tốt đẹp về Phật giáo Việt Nam đến vậy. Sự tin tưởng và khẳng định đó không phải là tiêu chí để Phật giáo mở rộng và nhân lên số lượng tín đồ, mà để những nhà lãnh đạo tâm huyết, những Phật tử và người dân Việt Nam tiếp tục ý thức và nhận thức về ba vấn đề lớn trong lịch sử mà bà Nguyễn Thị Bình đã nêu ra ở trên, để ứng dụng tất cả những tinh hoa tư tưởng khác nhau vào xây dựng xã hội hiện tại, một Niết bàn trong thế giới hiện thực.

Trương Công Khanh
* Phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi Khai mạc Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc. Chữ in đậm trong bài là do người viết nhấn mạnh.

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2008

VỤ "CẦU NGUYỆN" ĐÒI ĐẤT TÒA KHÂM SỨ: SỰ THẬT VỀ CHÙA BÁO THIÊN


Đầu năm 2008, trong tình hình sôi động của sự cố “Tòa Khâm sứ và Chùa Báo Thiên”, nhiều nhà nghiên cứu đã viết về lịch sử của quần thể ngôi chùa và bảo tháp được mênh danh là một trong Tứ Đại khí của nước ta. Một trong những bài viết được nhiều người quan tâm là của tác giả Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, mà cùng với các cơ quan truyền thông khác, Giao Điểm đã phổ biến vào ngày 3/2/2008 dưới tựa đề “Lịch sử Phố Nhà Chung”:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=2013

Ngày 18/5/2008 vừa qua, Giao Điểm nhận được bài viết mới của ông Lê Quang Vịnh nhằm cập nhật và đào sâu thêm những thông tin lịch sử chung quanh các biến cố quan hệ đến kiến trúc nầy. Chúng tôi xin đăng tải bài cập nhật đó dưới đây và xin trân trọng ghi nhận phương pháp làm việc cẩn trọng của ông cũng như tấm lòng của tác giả Lê Quang Vịnh đối với di tích văn hóa lịch sử nầy - Giao Điểm

LỊCH SỬ TANG THƯƠNG VỀ
CHÙA BÁO THIÊN Ở HÀ NỘI XƯA

Chùa Báo Thiên đau nỗi đau của nước
Đất hằn sâu gót giày quân xâm lược

Lê Quang Vịnh

Ở Hà Nội , phía Tây hồ Hoàn Kiếm, dọc theo trục Bắc Nam, có 1 đường phố ngắn (chỉ 300m) phía Bắc tiếp nối với phố Lý Quốc Sư, phía Nam đụng với phố Trường Thi, nằm gọn trong phường Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm, mang tên Phố Nhà Chung, thời Pháp thuộc gọi là Rue de la Mission (phố Hội Truyền Giáo hoặc phố Hội Thừa Sai). Trên đường phố này xúm xít những cơ sở Công giáo như Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội , trụ sở của Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam và mấy cơ sở bên “lương” như Câu lạc bộ Thanh thiếu niên[1] Hoàn Kiếm, Trung tâm ngoại ngữ Đại học Sư phạm… tiếp giáp với 2 ngôi chùa cổ danh tiếng trong sử sách vẫn ghi là chùa Bà Đá[2] và “Đền” Lý Quốc Sư[3].

Thời tôi còn công tác ở Ban Tôn giáo Chính phủ , tôi đã nhiều lần đến thăm chùa và nghe vị sư trụ trì[4] chùa Lý Quốc Sư kể chuyện, đưa cho đọc những tư liệu quí giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chứng tích rằng toàn bộ khu đất ấy, ngày nay gọi là Phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa là một ngôi chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta.

Chùa đó có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vòi vọi (12 tầng), cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt nước hồ[5] Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, gọi tắt là Báo Thiên Tháp[6].

Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056[7] (đời vua Lý Thánh Tông), đúc 1 quả đại hồng chung nặng đến 1 vạn 2 ngàn cân (7260 kg). Báo Thiên Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng 1 năm sau khi xây dựng xong chùa. Trong chùa và tháp có rất nhiều vật hạng bằng đồng như tượng Phật, thiền trượng , giới đao hộ pháp nhà Phật…cho nên năm 1426, khi quân Minh xâm lược bị vây khổn trong thành Đông Quan (tức Hà Nội), chúng cố thủ để chờ quân tiếp viện, đã đến chùa cướp phá tàn bạo: tốc chóp tháp đồng, nấu chảy đại hồng chung và tất cả những gì bằng đồng, bằng kim loại để làm vũ khí (đúc súng) chống lại quân Việt Nam của Lê Lợi-Nguyễn Trãi mãi cho đến khi biết rõ là các đạo quân tiếp viện (Liễu Thăng, Mộc Thạnh) đều đã bị đánh tan cả, mới chịu đầu hàng. Tuy nhiên, nhà Lê không để chùa bị bỏ hoang, cho trùng tu và đại trùng tu nhiều lần nên ngôi chùa vẫn giữ vị thế bậc nhất nước ta.

Trong chùa Lý Quốc Sư ngày nay vẫn còn lưu giữ bản gấm thêu sắc tứ của đời Cảnh Hưng (tức vua Lê Hiển Tông 1740-1786) về chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự. Trên nền tháp bị phá, đã được tôn cao bằng 1 đàn tràng cũng gần gần nơi bây giờ là nhà thờ lớn.

Về lý do diễn biến đổi thay từ chùa và tháp Báo Thiên, 1 trong “Tứ đại khí” hay “Tứ bảo khí” của Việt Nam cổ (tạm dịch là 4 công trình to lớn và quí báu nhất nước Nam ta) thành ra Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam và các tu viện, trường học Công giáo xung quanh đó ngày nay, thì dò theo các quyển sách lịch sử đáng tin cậy như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hà Thành thất thủ chính khí ca (khuyết danh), bản trường ca về việc Hà Nội bị Pháp đánh chiếm lần thứ 2 (Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, NXB Đà Nẵng 2001, trang 54-66), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn văn Tân, NXB Văn hóa Thông tin , Hà Nội 1998; Từ điển đường phố Hà Nội , NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2000; Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm-Công giáo và Dân tộc , xuân 1996, Thành phố Hồ Chí Minh ; Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long-NXB Văn hóa thông tin-Thời báo kinh tế Việt Nam, tập I, 2007… tôi suy ra những kết luận chuẩn xác như sau:

Số là sau khi được triều đình Huế chính thức nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường ) theo hòa ước 1862 (Nhâm Tuất), đến 1867 (Đinh Mão) quân Pháp lại chiếm luôn 1 cách dễ dàng cả 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên) nữa, soái phủ Sài-gòn có ý định chiếm nốt xứ Bắc Kỳ, để thiết lập vững chắc nền đô hộ của Pháp ở Viễn Đông.

Đô đốc Dupré viết thư sang Pháp:
“Xứ Bắc Kỳ rất giàu và nối liền với nước Tàu. Đó là nơi để các tỉnh phì nhiêu Tây Nam xứ Trung Hoa tải sản vật sang cho ta. Việc chiếm cứ xứ này là vấn đề sinh tồn cho tương lai cuộc đô hộ của ta ở Viễn Đông” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 117).

Pháp sử dụng hòa ước 1862 như 1 công cụ “tàm thực” (tằm ăn dâu) thần hiệu: “… Đạo Thiên Chúa được tự do truyền giáo … Người Pháp và người Tây Ban Nha được quyền mở 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên và tự do đi lại buôn bán trong nước ta…” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 87)
Năm 1871, có 1 thương gia người Pháp tên là Jean Dupuis đi tìm 1 con đường sông ở Bắc Kỳ giao thông với tỉnh Vân Nam của Tàu. J.Dupuis mộ lính Tàu và tập họp 1 băng đầu trộm đuôi cướp về đóng tại Hà Nội .

Quan ta không có quyền đuổi họ đi, bèn tâu về triều, xin phản kháng với đô đốc thống lĩnh xứ Nam Kỳ. Nhưng đô đốc Dupré chỉ 1 mực bênh vực Dupuis.
Tháng 5-1873, quan ta bắt giam đồ đảng người Nam và người Tàu của Dupuis, thì Dupuis bảo sẽ dùng vũ lực phá nhà ngục, đánh tháo cho những kẻ bị bắt giam. Dupuis lại đòi mua muối, củi để tàu của mình dùng, nhưng quan ta không chịu, khiến tình hình càng hết sức căng thẳng.

Thuở ấy, Nguyễn Tri Phương được vua Tự Đức bổ nhiệm chức Bắc Kỳ Khâm mạng tuyền sát đổng sức đại thần (kinh lược sứ Bắc Kỳ), điều quân từ Sơn Tây về giữ thành Hà Nội.

Đáp lại thư phản kháng của triều đình Huế, soái phủ Sài-gòn còn giúp thêm cho J.Dupuis 3 vạn quan tiền.

Ngày 27-7-1873, Dupré đánh điện tín về bộ Hải quân:
“Xứ Bắc Kỳ đã mở cửa thông thương nhờ công của Dupuis. Việc này có ảnh hưởng lớn đến thương mại của Anh, Đức, Mỹ. Ta cần phải chiếm xứ này trước, đừng để bọn giặc Tàu hay người Tây phương khác chiếm. Như thế ta sẽ đem lại cho nước Pháp 1 con đường buôn bán độc quyền. Tôi không xin thêm viện binh. Tôi sẽ đem quân lực sẵn có đi đánh. Sự thành công rất chắc chắn” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang 119).

Soái phủ Sài-gòn truyền lệnh cho trung tá[8] Francis Garnier mang 1 tiểu đội chiến thuyền ra Bắc Hà trước để điều tra vụ Dupuis, sau buộc triều đình Huế mở rộng xứ Bắc Kỳ cho người Pháp buôn bán. Ngày 17-9-1873, F.Garnier rời bến Sài-gòn và đến ngày 5-11, đem quân đến Hà Nội .

F.Garnier vừa mới gặp Nguyễn Tri Phương đã khiêu khích rất hách dịch, đòi đóng quân ngay trong hoàng thành, bắt buộc các địa phương phải để cho người Pháp thông thương trên toàn cõi Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Tri Phương cự tuyệt, lý do là vì chưa có lệnh triều đình. Thực sự Francis Garnier khiêu khích để châm ngòi cuộc chiến tranh:
“Tôi nhất định đánh. Tôi sẽ đem 180 quân bản bộ hạ thành Hà Nội và bắt Nguyễn Tri Phương giải về Nam, làm tù binh” (Thư của Francis Garnier gởi về Soái phủ Sài-gòn cho Đô đốc Dupré ngày 10-11-1873).

Ngày 20-11-1873, đúng 6h sáng, Francis Garnier truyền lệnh hạ thành Hà Nội . Đại bác ta trên thành bắn ra không có tác dụng gì cả, đạn lướt qua đầu quân Pháp và rớt xuống cả mặt đất phía sau. Quân ta trong lúc hoảng hốt, quăng xuống vô số đá to, đá nhỏ mà chẳng trúng tên quân Pháp nào. Một đại bác của Pháp bắn vỡ cửa Đông, quân Pháp ào tới, ập vào thành. Đến 7h, cờ Pháp bay trên vọng lâu trung ương thành Hà Nội . Phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương nặng ở đùi, bị Francis Garnier bắt được . Francis Garnier phái các bác sĩ đến băng bó vết thương, đổ cháo và thuốc vào miệng ông để ông mau phục sức. Nhưng Nguyễn Tri Phương dứt cả băng bó, phun cháo và thuốc ra, nhất quyết tuyệt thực cho đến chết. Francis Garnier đem thông ngôn[9] đến ngồi bên giường ôn tồn an ủi. Nguyễn Tri Phương thản nhiên đáp:
“Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã” (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương . NXB Chính Ký, Sài-gòn 1944, trang123)
Ngày 20-12-1873, Nguyễn Tri Phương[10] trút hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi (1799-1873).

Francis Garnier lúc ấy đóng quân ở Trường Thi[11] đem toàn bộ ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự ở gần đó giao cho người thông ngôn của mình là Giám Mục Puginier làm nhà ở và nơi làm việc tạm thời. Giám Mục cho cất thêm mấy gian nhà gỗ trong khuôn viên chùa[12], còn Tòa Giám Mục thì vẫn đặt tại Sở Kiện. Trong mấy năm sau đó, tình trạng này vẫn không thay đổi vì chỉ đến ngày 21-12-1873 thì Francis Garnier bị quân Cờ Đen phục kích giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế cai quản theo hòa ước 1874 (Giáp Tuất).

Mãi cho đến 9 năm sau, Soái phủ Sài-gòn mới cử Henri Riviere[13] ra đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882-Nhâm Ngọ). Lần này thì Tổng đốc Hà Ninh[14] là Hoàng Diệu (trọng trấn từ 1879) quá phẩn uất trước cảnh vua và triều đình bạc nhược chủ hòa[15], không quyết tâm phòng bị, còn các quan chức kế cận mình thì hèn nhát bỏ trốn trước giờ lâm trận, thậm chí phản bội đầu hàng, cho nên sau khi viết xong tờ di biểu, ông đã treo cổ tự tử trên cây ổi ở miếu Công Thần trong Hành Cung Kính Thiên.

Sau khi chiếm được Hà Nội, Henri Riviere sai phá hủy các cổng thành và nhiều đoạn tường thành, vần hết đại bác trên thành ném xuống hào. Các chùa miếu quanh thành đều bị phá phách, xô sập tất cả, 1 mặt để lấy gỗ gạch làm công sự[16] , mặt khác là để thực hiện chủ trương triệt hạ nền văn hóa cổ truyền bản địa[17] và độc tôn Thiên Chúa giáo mà thực dân Pháp vẫn được Vatican tuyên dương là Trưởng Nữ của Giáo hội. Từ ấy, Báo Thiên Tự biến mất trên bản đồ Hà Nội .

Năm 1884, hàng ước Patenotre được ký kết, triều đình Nguyễn chấp nhận Pháp bảo hộ và chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là xứ thuộc địa (colonie) của Pháp, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ (protectorat) của Pháp, Trung Kỳ được gọi là Đế chế An Nam (Empire d'An Nam) – sự thật thì cả ba kỳ đều chung 1 chế độ lệ thuộc, ngay trong đế chế An Nam thì vua mặc dù có những vị vua yêu nước muốn khôi phục độc lập chủ quyền cho Dân tộc , nhưng cuối cùng phải bị bắt bị đày, bởi “vua thì còn đó, nước thì không “, triều đình quan lại thì mặc dù cũng có những ông quan tận trung báo quốc nhưng cuối cùng phải bị giết bị tù bởi triều đình quan lại rút cuộc chỉ là con rối trong tay thực dân Pháp mà thôi, Giám Mục Puginier mới cho xây dựng lại bằng những vật liệu kiên cố Nhà Thờ Lớn và các tòa nhà khác của nhà chung rồi dời Tòa Giám mục[18] về đây.

Năm 1925, Tòa Thánh Vatican lập Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ở Việt Nam (Delegue’ Apostolique19 F, Apostolic Delegate[19] E) và trụ sở ban đầu đặt tại Huế, đến năm 1951 mới dời ra Hà Nội và Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh được xây dựng ngay trên khu đất Phố Nhà Chung này. Đến năm 1957, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền miền Nam nhất định không chịu hiệp thương tổng tuyển cử, Tòa Thánh Vatican thì nhất quyết không thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên chuyển Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh vào Nam (Sài-gòn) là nơi mà Tòa Thánh công nhận là “đại diện duy nhất” (!) cho nước Việt Nam…
Lê Quang Vịnh, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

Tái bút: Noel[20] 2007, hàng trăm thanh niên Công giáo Hà Nội với danh nghĩa là “theo giáo hội cầu nguyện hòa bình” đã xông vào địa chỉ 42 phố Nhà Chung đang là trụ sở của Phòng Văn hóa Thông tin , Nhà Văn hóa & Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm, phát hàng vạn tờ truyền đơn đòi Nhà nước phải trả lại cho Tòa Tổng Giám Mục khu đất ở địa chỉ này mà họ cho là của Tòa Khâm sứ (cũ). Họ trưng ra 1 bức thư của người đại diện Tòa Thánh Vatican khi rời Hà Nội vào Sài-gòn năm 1959 cám ơn Tòa Giám Mục Hà Nội đã cho mượn đất để xây dựng Tòa Khâm sứ (cũ). Cuối tháng 1-2008, Tòa Tổng GM Hà Nội chính thức gởi đơn lên Thủ tướng Chính phủ xin lại lô đất số 42 phố Nhà Chung để làm chỗ họp của HĐGMCGVN.
Đến giữa tháng 2-2008, Ban Văn Hóa trung ương (thuộc Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ) chính thức gởi đơn lên Thủ tướng Chính phủ khẳng định lô đất gọi là của Tòa Khâm sứ (cũ) và kể luôn cả khu đất của Nhà Thờ Lớn Hà Nội đều thuộc khuôn viên chùa Báo Thiên, di sản văn hóa lớn của Phật giáo Việt Nam và như thế lẽ ra là nên được giao về cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Tình hình tranh chấp càng lúc càng trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi không tham gia vào cuộc tranh chấp phức tạp này. Tuy nhiên chúng tôi không thể không ghi lại lịch sử cụ thể của khu đất bao gồm cả địa chỉ 42, 40 phố Nhà Chung và toàn bộ phố Nhà Chung (hiện nay) rộng đến hàng ngàn m2 đất đều nằm trong khuôn viên của ngôi chùa cổ gần cả nghìn năm và đồ sộ nguy nga bậc nhất nước Nam xưa: Chùa Báo Thiên và Tháp Báo Thiên đã là hình ảnh đau thương của dân tộc ta dưới gót giày quân xâm lược: quân xâm lược Tàu và quân xâm lược Pháp.

Trước hết cần nói rõ về Tháp Báo Thiên.
Tháp có tên gọi đầy đủ là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, xây dựng năm 1057 (Quí Dậu). Tháp cao 12 tầng, không biết nó cao bao nhiêu met bởi trong lịch sử chỉ ghi là vài chục trượng[21] , không rõ là 25, 30, 35 trượng (tức 83m, 100m, 117m), chỉ biết nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần có bài thơ về tháp như sau:
Trấn áp Đông Tây, củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp, độc nguy nguy
Sơn hà bất động, kình thiên trụ
Kim cổ nan ma, lập địa chùy
Dịch nghĩa: Trấn áp Đông Tây, giữ vững kinh kỳ / Ngọn tháp vượt hẳn lên giữa trời cao sừng sững / Chiếc cột chống trời đứng đó làm cho non sông yên ổn / Như mũi dùi trên đất xưa nay chẳng hề mòn.

Tháp bị hư hỏng như thế nào thì mỗi sách viết mỗi cách khác nhau:
- Theo” Sổ tay địa danh Việt Nam” của Đinh Xuân Vịnh (NXB Lao động Hà Nội 1996 ) tr 42 ghi rằng “…cao 12 tầng, là 1 trong An Nam tứ khí. Năm 1258 đời Trần Thánh Tông gió to đổ mất đỉnh tháp, năm 1322 đời Trần Minh Tông sét đánh đổ mất 2 tầng nữa, năm 1406, chỏm tháp Báo Thiên bị gãy. Năm 1884 bị bỏ hoang và đổ nát”.
- Theo sách “Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (NXB Hà Nội 1979) và sách “Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20” của Nguyễn văn Uẩn (NXB Hà Nội 1994) tập II, tr 543 thì ghi rằng “…Thời Minh thuộc, tướng giặc Vương Thông bị nghĩa quân Lam Sơn vây khốn trong thành Đông Quan, chúng đã phá các chùa chiền, vơ vét chuông khánh đồng để đúc binh khí chống lại quân ta. Tháp và chùa Báo Thiên bị phá hủy nặng nề và chuông Báo Thiên bị mất”.
- Tr 544 ghi thêm “Năm Giáp Dần 1434, vua Lê Thái Tông mở mang khu vực Hồ Gươm, sai thợ khéo dựng lại chùa Báo Thiên, còn ngôi tháp đổ không xây lại được nữa. Chỗ nền tháp cũ chỉ còn là 1 gò đất cao… thành nơi họp chợ của dân phường Báo Thiên, đôi khi dùng làm chỗ hành hình tội nhân”.

Như vậy có thể khẳng định tháp Báo Thiên chỉ tồn tại đến trước khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428). Nhưng vì sao mà tháp bị đổ thì vẫn còn là 1 nghi vấn vì Trần Quốc Vượng , Vũ Tuấn Sán, Nguyễn văn Uẩn cho rằng bị Vương Thông phá, còn Đinh Xuân Vịnh lại cho rằng bị gió to, sét đánh…
Truy lịch sử trước đời Lê, thì Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (NXB Văn hóa Thông tin 2004, tập II, tr 41) có ghi chuyện “Vương Thông nước Minh vì trận thua ở Tốt Động, quân khí gần hết, bèn phá chuông Qui Điền và đỉnh Phổ Minh (trong An Nam tứ khí) để làm súng đạn và ống phun lửa…”
Trận Tốt Động (chữ Tốt cũng đọc là Tụy, Toại) nổ ra ngày 7 và kết thúc ngày 10 tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) và sau đó Vương Thông thua chạy về cố thủ ở Đông Quan (Hà Nội ). Nhưng trong phần dịch chú, chuông Qui Điền được cho là của chùa Một Cột và đỉnh Phổ Minh thì lại cho là ở phủ Thiên Trường (Nam Định). Tôi thiết nghĩ là nhà dịch chú đã lầm lẫn, vì tháp Phổ Minh (cao 14 tầng) thờ vua Trần Nhân Tông và chùa Một Cột cách xa nhau hàng mấy trăm km đường bộ, hơn nữa sau trận Tốt Động, Vương Thông bị vây khổn ở Đông Quan, đâu còn cơ hội nào về phủ Thiên Trường ở Nam Định? Do đó, chúng tôi thiết nghĩ có thể nhà dịch chú đã hiểu lầm cái chóp tháp đúc bằng đồng ra cái đỉnh (vạc) và án khảo nội đoạn này kể chuyện Vương Thông đến chùa Báo Thiên nấu chảy dại hồng chung và chóp tháp bằng đồng để đúc súng đây. Vả lại phải là chùa và tháp Báo Thiên mới thuộc Tứ Đại Khí mà thôi.
Từ những án khảo nội trên có thể kết luận tháp Báo Thiên bị đổ là vì Vương Thông phá đi để lấy chóp đồng. Đến đời nhà Lê thì tháp Báo Thiên không còn nữa.

Bây giờ bàn đến việc chùa Báo Thiên biến mất là vì đâu?
Điều này rất quan trọng bởi có ý tưởng xuyên tạc rằng khi xây dựng Nhà Thờ Lớn thì ngôi chùa đã không còn nữa, hoặc chỉ là 1 đống hoang tàn đổ nát vô chủ? Trong ĐVSKTT tập II, tr 41 có ghi việc vua Lê Thái Tông đại trùng tu chùa Báo Thiên năm 1434. Ngày nay trong chùa Lý Quốc Sư vẫn còn lưu giữ bức gấm thêu sắc tứ chùa Báo Thiên đời Cảnh Hưng cuối thế kỷ 18.
Như vậy là cho đến đầu thế kỷ 19, chùa Báo Thiên vẫn còn nguyên vẹn là 1 ngôi chùa sắc tứ (tất nhiên là không còn tháp Báo Thiên). Bởi vấn đề chùa Báo Thiên có liên quan đến GM Puginier, cho nên cần sưu tầm những tư liệu có liên quan đến Puginier.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim có ghi việc F.Garnier mời Puginier từ Kẻ Sở về Hà Nội làm thông ngôn. Lúc đó (1873) F.Garnier đóng quân ở Trường Thi và đã lấy chùa Báo Thiên (bên cạnh đó) giao cho GM ở và làm việc cho gần. Tổng tập Nghìn năm Văn hiến Thăng Long Hà Nội , tập I, 2007, tr(?) có ghi rằng GM Puginier cho cất tạm thêm mấy gian nhà gỗ bên trong khuôn viên chùa. Nhưng F.Garnier chiếm mà không giữ được Hà Nội bao lâu vì y bị quân Cờ Đen giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế theo hòa ước 1874. GM lại trở về Kẻ Sở, tuy vậy chùa Báo Thiên lúc đó dù chưa bị phá huỷ nhưng với mấy gian nhà gỗ do GM dựng tạm đã trở thành ngôi nhà thờ Công giáo được các thày kẻ giảng người Việt trông coi. Trong sách “Hà Nội pendant la période héroique” của Masson, Hà Nội 1912, tr(?) có tả lại cảnh nhà thờ này: “Nhà thờ mới dựng giống như 1 ngôi đền Á Đông, có gian giữa rộng với nhiều cột bằng gỗ lim…”Mãi cho đến khi H.Riviere đánh chiếm Hà Nội lần thứ II (1882) thì nhà thờ mới có 3 cố Tây về cai quản. Masson (sách đã dẫn trên) có kể lại chuyện ngôi nhà thờ này bị đốt phá.

Năm 1883, H.Riviere bị quân Cờ Đen giết chết. Các nơi có quân Pháp đóng bị tấn công. Tại khu vực nhà thờ này có 1 tiểu đội Pháp đóng (cùng với 1 số giáo dân được cấp súng làm vệ binh). Đêm 19-5-1883, số lính tráng này bị tấn công, nhà thờ bị đốt phá tan tành. Ba cố Tây (Landais có tên Việt là Cố Lan, Rival – Cố Mỹ, Bertrand – Cố Phước) dẫn thủ hạ chạy sang ẩn ở chùa Bà Đá bên cạnh (được xây dựng từ khoảng cuối thế kỷ 15, tương truyền để thờ 1 tượng đá hình người đàn bà lượm được ngay dưới chân tháp Báo Thiên xưa), được sư cụ chùa Bà Đá che chở cho nên không bị bắt giết (Việc này Chu Thiên có đề cập đến trong sách “Hùng khí Thăng Long”). Rồi khi quân Pháp được tăng viện, chiếm lại khu đất này, thì nhà thờ đã bị đốt phá, những gian nhà gỗ bị cháy rụi, những phần khác của chùa xưa còn trơ lại những mảnh đống nham nhở đổ nát.
GM Puginier muốn xây dựng mới hoàn toàn, nhưng nhận thấy tính cách pháp lý của vấn đề chưa ổn, bèn bàn với Công sứ Bonnal và được Bonnal bày mưu, giao hết trách nhiệm về tay Tuần phủ Nguyễn Hữu Độ. Tuần Độ lập kế rất kín kẽ chi ly: trước hết gọi các kỳ hào phường Báo Thiên (mà hầu hết là giáo dân) lên bắt làm đơn xin cào sạch mọi di tích của chùa Báo Thiên cũ với lý do là chùa đổ nát để vậy dễ gây tai nạn nguy hiểm. Sau đó Tuần Độ cho đi tìm chủ nhân của khu đất này. Thì chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (thế kỷ 11) “đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt” làm sao có ai dám nhận mình là chủ? Vả lại trước đây F.Garnier lấy chùa còn khang trang giao cho Puginier làm chỗ ở và chỗ làm việc rồi, mọi động thái sau này của Tuần phủ Nguyễn Hữu Độ chẳng qua chỉ là pháp lý hóa 1 việc đã rồi mà thôi. Thế là Tuần Độ đem mảnh đất “vô chủ”ấy giao hết cho GM Puginier để làm Nhà Thờ Lớn. (Những sự việc kể trên đều được đích thân Bonnal kể lại với tất cả niềm hãnh diện của 1 công sứ Pháp đã trí tuệ đóng góp cho sự nghiệp của đạo Công giáo trong tập bút ký Bonnal: Souvenirs. Villebonnet đăng lại toàn bộ và dẫn chú tập bút ký này năm 1929, (NXB) Librairie Orientaliste Paul Genthner 13 rue Jacob, Paris VIe, trang 125).
Những chứng cứ này còn được 1 nguồn khác xác nhận, đó là sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20 của Nguyễn văn Uẩn, NXB Hà Nội 1995, tập II, tr 547 trong đó còn kể lại việc GM Puginier kiếm tiền xây dựng nhà thờ bằng quyên góp và xổ số. GM đã mở nhiều đợt xổ số: cuộc xổ số năm 1884 thu được 10 vạn đồng, cuộc xổ số năm 1886 được 6 vạn đồng. Nhà Thờ Lớn được khánh thành ngày 23-12-1887. Nguyễn văn Uẩn lấy tư liệu từ Masson:Hà Nội pendant la période héroique 1873-1888. Madrolle guide Hanoi 1912.

Còn về chùa Bà Đá thì do đâu mà ở trong khu đất này vẫn được nguyên vẹn?
Chùa Bà Đá được dựng lên để thờ 1 tượng đá hình người đàn bà nhặt được nơi chỗ chân tháp Báo Thiên đã bị phá năm 1426. Đến 1786, chùa bị phá huỷ và tượng Bà Đá bị mất. Sau đó chùa được trùng tu và 1 tượng Phật bằng đá được thế vào. Tuy vậy chùa vẫn mang tên là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang Tự.
Chùa Bà Đá không phải di dời ra khỏi khu vực phố Nhà Chung vì Nhà Chung nhớ ơn cứu mạng của sư cụ đối với 3 giáo sĩ Pháp là Landais, Rival, Bertrand trg đêm 19-5-1883 quân Cờ Đen tấn công Nhà Chung bắn giết giáo sĩ.

Điều cuối cùng là Tòa Khâm sứ. Theo đúng ngữ nghĩa thì Tòa Khâm sứ không phải là Tòa Đại sứ, lý do là vì Vatican chưa bao giờ lập Đại sứ với Việt Nam. Tòa Khâm sứ là cơ quan đại diện cho Tòa Thánh làm việc với Giáo hội[22](với các Giám Mục) . Tòa Khâm sứ lập ra năm 1925[23], ban đầu đặt ở Huế, đến năm 1951 dời ra Hà Nội và đến 1959 thì dời vào Sài-gòn. Lý do vì sao Tòa Khâm sứ Tòa Thánh Vatican lại không để ở Hà Nội là: Vatican không chịu nhìn nhận Chính phủ VNDCCH mà chỉ nhìn nhận Chính phủ VNCH ở Sài-gòn như là người đại diện duy nhất của nước Việt Nam .(Năm 1954, hiệp định Geneve tạm thời chia đất nước Việt Nam thành 2 vùng tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất . Nhưng nhà đương cuộc Sài-gòn không chịu hiệp thương , Vatican thì không chịu công nhận Chính phủ VNDCCH ở Hà Nội . Vì vậy Chính phủ ở Hà Nội trục xuất Khâm sứ và tịch thu Tòa Khâm sứ.).

Tóm lại, chùa Báo Thiên ở Hà Nội xưa quả thật đã là nạn nhân cực kỳ đau khổ của các thế lực xâm lược nước ngoài. Lịch sử của chùa và tháp Báo Thiên có liên quan với thiên cổ hùng văn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, với “máu lệ những kẻ tôi trung tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương[24]”của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.

Tuy chùa và tháp Báo Thiên không còn trên bản đồ thành phố Hà Nội nhưng chứng tích lịch sử thì vẫn rành rành ra đấy, 120 năm (1887-2007) đối với 1 đời người thì là dài, nhưng đối với lịch sử thì chẳng là bao lăm cả, dù vật đổi sao dời, dù mưu thâm kế độc, thế nào rồi cũng tìm ra được sự thật sáng ngời.

Ôi!Một mảnh đất của Tổ Quốc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và máu đào của dân tộc !

[1] nay đã chuyển thành trụ sở Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa và Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm.
[2] nguyên vào đời Lê Sơ (thế kỷ 15), dân sở tại đào được ở chân tháp Báo Thiên bấy giờ đã bị quân Minh tốc mái đồng xô sập (năm 1426) 1 tượng đàn bà bằng đá , bèn lập am để thờ. Am được mở rộng thành chùa thờ Phật, gọi là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang Tự. Năm 1786 (Bính Ngọ) chùa bị phá hủy, tượng đá bị mất. Sau đó chùa được làm lại và 1 pho tượng Thích Ca bằng đá được đặt thay tượng cũ.
Vào thời Tây (H.Riviere) chiếm Hà Nội lần thứ 2, đêm 19-5-1883, quân Cờ Đen đột nhập vào khu vực Phố Nhà Chung này, đốt phá nhà thờ bấy giờ còn bằng gỗ, giết hại các giáo sĩ và giáo dân , có 3 cố đạo (Landais, Rival, Bertrand) và mấy con chiên nữa, đã chạy vào chùa, được sư cụ trụ trì chùa Bà Đá che chở nên thoát nạn. Nhờ đó, Nhà Chung nhớ ơn, chỉ lấy bớt đi của chùa 1 ít đất, chứ không bắt phải di dời ra khỏi khu vực. Masson: Hà Nội pendant la periode heroique-Madrolle guide Hà Nội 1912.
[3] thờ Lý quốc sư Nguyễn Minh Không (1066-1141) , nguyên là tinh xá triều đình cho dựng lên bên cạnh chùa Sùng Khánh để sư Minh Không (trụ trì chùa Cổ Lễ-Nam Định) ở khi ông về Hà Nội chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông .
[4] Thượng Tọa Thích Bảo Nghiêm
[5] Báo Thiên Tháp Ảnh: Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam , NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội 1998, tr 92.
[6] Phạm đình Hổ: Tang thương ngẫu lụcà “Tháp xây bằng đá và gạch; viên gạch nào cũng có hàng chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”. Nền tháp cao có 4 cửa; trg tháp có tượng người , tiên, chim muông bằng đá đem từ Chiêm Thành về. Cửa tầng 3 có khắc “Thiên tử vạn thọ”. Suốt 12 tầng tháp đều có cửa, tầng trên cùng đúc bằng đồng. Đỉnh tháp có hàng chữ “Đạo lệ thiên” (đạo vói tận trời).
[7] nguyên văn : “Bính thân, năm thứ 3, mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến nông, làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua (Lý Thánh Tông nổi tiếng thương dân như con, LQV chú) thân làm bài minh. Đinh dậu, năm thứ 4, mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng , 12 tầng…” (ĐVSKTT, tập I, NXB VHTT 2004, tr 318).
[8]capitaine de fregate, Trần Trọng Kim dịch là Đại úy, nhưng tôi (Lê Quang Vịnh ) nhận thấy quá thấp, bởi trong hải quân Pháp cổ, capitaine có nghĩa là chiến thuyền trưởng chứ không phải là đại úy như trong lục quân, hơn nữa có 3 cấp capitaine là Capitaine de corvette=thiếu tá hải quân; Capitaine de fregate=trung tá hải quân; Capitaine de vaisseau=đại tá hải quânèdo đó đề nghị dịch lại là trung tá hải quân (theo Larousse 1992).
[9] chính là Giám Mục Puginier (theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim)
[10] tại từ đường họ Nguyễn có 2 câu đối ca ngợi gia đình Nguyễn Tri Phương anh dũng hy sinh vì nước : Huynh khổn Bắc, đệ khổn Nam, lưỡng khổn Bắc Nam chi mạng / Phụ tử trung , tử tử hiếu, nhất đường trung hiếu chi vinh.
[11] khoảng giữa Thư viện KHXH và Trường Kỹ nghệ Hà Nội (theo Hà Thành thất thủ ca, câu 8)
[12] theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập I, 2007, trang
[13] Capitaine de vaisseau=Đại tá hải quân (xem chú thích số 6)
[14] Hà Ninh có 2 nghĩa trái ngược nhau: theo Trần Trọng Kim trg Việt Nam sử lược là Hà Nội + Ninh Bình, theo Nguyễn Hoàng Viên trg Hoàng Diệu 1829-1882 là Hà Nội + Ninh Bình + Hà Nam, nhưng theo Hoàng Xuân Hãn trg bản nghiên cứu về Chính Khí Ca thì lại là Hà Nội + Bắc Ninh.
[15] Tự Đức nói: “Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội…” (Đặng Duy Phúc: Thăng Long. Đông Kinh. Hà Nội , nơi hội tụ nhân tài. NXB Hà Nội 1996)
[16] Trg Hà Thành thất thủ ca có ghi: /Kính Thiên ngài ngự thếp vàng,/Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu./Các chùa miếu đâu đâu đấy tá,/Can gì Tây cũng phá tan tành? (câu 115-118)
[17] còn có 1 yếu tố tinh thần khác dẫn đến quyết định của H.Riviere phá hết các đình chùa ở Hà Nội mà Giáo sư Vũ Khiêu có nhắc tới: “Ngay từ giờ phút đầu tiên…các đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của quan quân trong thành…” (Giáo sư Vũ Khiêu: Lễ tưởng niệm danh nhân yêu nước Hoàng Diệu nhân 170 năm sinh tại Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 30-10-1999. Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu , NXB Đà Nẵng 2001, trang 216).
[18] tên gọi của Tòa Giám Mục đã thay đổi rất nhiều lần kể từ khi đạo Thiên Chúa được truyền vào Việt Nam. Năm 1679, Tòa Thánh chia Địa phận Đàng Ngoài thành 2: Địa phận Tây và Địa phận Đông Đàng Ngoài. Năm 1846, Địa phận Tây Đàng Ngoài lại được chia làm 2: Địa phận Tây Đàng Ngoài và Địa phận Nam Đàng Ngoài. Hà Nội nằm về phía Tây nên thuộc về Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Tòa Giám mục lúc ấy được gọi là Tòa Giám Mục Tây Đàng Ngoài. Mãi đến năm 1924 mới lấy tên nơi đặt Tòa Giám Mục làm tên gọi các Giáo phận. Tòa Giám Mục Hà Nội có tên từ ấy (GHCGVN, niên giám 2004, trang 218)

[19] Apostolic Delegate: Khâm sứ Tòa Thánh (= vị đại diện của Đức Giáo Hoàng, không làm nhiệm vụ ngoại giao như apostolic nuncio mà chỉ làm nhiệm vụ của Giáo Hội là liên lạc với các giám mục ở những quốc gia không có quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican (Nguyễn Đình Diễn: Từ điển Công giáo Anh Việt, NXB Tôn giáo , Hà Nội 2002, trang 49)
[20] Sự thật những cuộc “biểu tình cầu nguyện” bắt đầu từ đêm 18-12-2007 và chấm dứt ngày 2-2-2008
[21] trượng = 3,3333m
[22] xem chú thích số 19
[23] Nếu tính từ gốc gác thì năm 1922, GH Pio XI đã cử GM Dòng Tên Lecroart địa phận Thiên Tân Trung Quốc làm Khâm sai Tòa Thánh đi quan sát tình hình các giáo phận ở Đông Dương ; năm 1925, GH Pio XI lập Tòa Khâm sứ Đông Dương + Thái Lan và ngày 25-5-1925 cử GM Constantino Ayuti làm Khâm sứ ĐD. Ban đầu Tòa Khâm sứ đặt tại Hà Nội , nhưng lúc đó, Hà Nội không phải là kinh đô của nước , cho nên phải đưa về Huế, kinh đô đế chế An Nam và Tòa Khâm sứ đặt gần Nhà thờ chính tòa Phủ Cam; năm 1928, GM Constantino Ayuti qua đời, GH Pio XI cử GM Columban Dreyer đến thay (vẫn ở Huế); năm 1937, GM Antonio Drapier được cử về thay (vẫn ở Huế). Năm 1945, nước Việt Nam tuyên bố Độc lập và thủ đô là Hà Nội . Năm 1950, GH Pio XII cử GM John Jarlath Dooley (người Ireland) làm Khâm sứ ĐD; năm 1951, Tòa Khâm sứ ĐD được dựng lên tại Hà Nội . Năm 1954, nước Việt Nam bị chia thành 2 miền Nam Bắc, GM J.J.Dooley vẫn ở lại miền Bắc nhưng Vatican nhất quyết vẫn coi Nhà nước VNDCCH như là 1 chính quyền bất hợp pháp và cương quyết không thừa nhận. Năm 1959, chính phủ VNDCCH trục xuất chức Khâm sứ. Tháng 3/1959, GM JJDooley lấy lý do sức khỏe vào Nam; Lm Đức Ông Terence O’Driscoll được cử làm Quyền Khâm sứ, nhưng chỉ được mấy tuần thì chính phủ VNDCCH trục xuất và tịch thu Tòa Khâm sứ.
[24] Hồ Chí Minh : Lịch sử nước taà Nước ta nhiều kẻ tôi trung / Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương / Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương / Cùng thành còn mất, làm gương để đời.
Xem thêm những tin liên quan về vụ "tòa khâm": http://www.phatviet.org/index.php?nv=News&at=article&sid=2881