1. Về phương diện từ ngữ
Tự điển Pháp Việt của Ðào Duy Anh định nghĩa chữ “soldat” là lính chiến. Chữ “soldier”, theo Anh-Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn cũng có nghĩa là binh lính. Thực ra, chữ “missionnaires” mới có nghĩa là những thừa sai. Tôi chưa bao giờ thấy ai dịch chữ “soldat” là lính thừa sai, và cụm từ “la conquête de tout l’Orient” là “nước Cha trị đến”. Vả lại, danh từ “La France” (nước Pháp) chứ không phải danh từ “Eglise francaise” (Giáo hội Pháp) là chủ từ của mệnh đề đó, nên chữ “soldat” phải được hiểu là “lính chiến” chứ không thể hiểu ẩn dụ là “lính thừa sai” được. Trong chính phủ Pháp không làm gì có lính thừa sai để cha xin, mà chỉ có lính chiến mà thôi.
Cũng trong cuốn Hành trình và truyền giáo, Linh mục de Rhodes viết:
“Tôi đi qua Marxây và Lyon rồi tới Paris; theo tôi thì Paris là thu gồm hay đúng hơn là bản mẫu tất cả những gì đẹp nhất tôi đã thấy ở khắp trái đất này” (cuối tr. 263). Sau 3 dòng này, Linh mục de Rhodes viết rõ thêm ý nghĩ của mình:
“Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Ðể ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của Hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu, suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao cuộc hội ngộ may mắn nhất trong suốt các hành trình của tôi”. (đầu tr. 264).
Ðoạn văn trên cho thấy, chính linh mục Alexandre de Rhodes đã nhờ Giám mục thành Puy, Henri de Maupa, cũng là tuyên uý của Hoàng hậu vợ vua Louis XIV, dẫn vào triều đình để vận động xin giúp nhiều lính chiến (plusieurs Soldats) để chinh phục toàn cõi phương Ðông (la conquête de tout l’Orient, trong đó có Việt Nam). Tuy sự vận động đó chưa thành hình vào thời điểm của ông, nhưng nó đã mở đường cho Pháp xâm lăng nước ta 206 năm sau. [Lính Pháp đổ bộ lên Ðà Nẵng ngày 1.9.1858.]
Chưa hết, tiếp theo đoạn vừa dẫn, Linh mục de Rhodes cũng đã bộc lộ thêm:
“Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Ðàng Trong, ở Ðàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất.” (giữa tr. 264)
Sự việc quá rõ như thế, nhưng các Gs. Chương Thâu, Gs. Ðinh Xuân Lâm và nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu không biết lý do nào đã không đọc hết một trang mà chỉ đọc một đoạn (hơn sáu dòng, tr. 263) trong Hồi ký của Linh mục de Rhodes rồi diễn giải tùy tiện.
Ðể việc biện chính được rõ hơn, tôi sẽ trở lại vấn đề này và dẫn thêm sử liệu để cho thấy tại sao cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) không xin Giáo hội Pháp mà xin chính phủ Pháp.
2. Yếu tố kinh tế và xu hướng của các thương gia
Nửa đầu thế kỷ 17, các nước phương Tây như Pháp, Bồ Ðào Nha chú ý đến biển cả để buôn bán với các nước bên ngoài, đặc biệt là các nước Viễn Ðông. Do đó, sử gia Stanley Karnow, khi tìm hiểu nguyên nhân thu hút người Tây Phương đến Á Châu, đã viết:
“Sự giàu có của Á Châu, thực tế và huyền thoại, đã kích thích Châu Âu. Những nhà du hành như Marco Polo đã trở về với câu chuyện nín thở về những ngôi đền Miến Ðiện ‘được bọc vàng dày một ngón tay’, và các bờ biển Ấn Ðộ ‘cát được sáng chói với những viên ngọc thạch và những quặng kim loại quí giá’. Chưa có loại thực phẩm Châu Á nào có thể sánh với hồ tiêu, đậu khấu, sả và các gia vị đặc biệt khác để ướp thực phẩm, đặc biệt là trong những vùng khí hậu ấm hơn của miền nam Âu Châu.” [1]
Trong chiều hướng đó, Linh mục Ðắc Lộ cũng đã kích thích các thương gia qua cách diễn tả lạc dẫn để “thuyết phục các lãnh tụ tôn giáo và thương gia Pháp bằng một hình ảnh là nước Việt Nam đã đến giai đoạn chín muồi để dân chúng theo Công giáo, và là một quốc gia thần tiên với tài nguyên vô tận, ngay cả người đánh cá cũng dùng lưới làm bằng tơ lụa”.
Ðắc Lộ mô tả tình hình kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ như thế, hoàn toàn không đúng: Việt Nam đâu có giàu như vậy. Nhưng tại sao Cha lại nói dối? Phải chăng là để kích thích lòng tham của chính phủ Pháp và các giới thương mại? Và việc từ thương mại đến vũ trang để chiếm đoạt và khai thác quyền lợi kinh tế đâu phải là một đoạn đường dài và không thuận lý?
3. Về bối cảnh chính trị và tôn giáo
Từ năm 1493, Giáo hoàng Alexander VI đã ban hành giáo lệnh giao cho Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha có quyền sở hữu và khống chế cả thế giới. Vì thế, Cố A. de Rhodes viết rất đúng với hiện thực chính trị lúc bấy giờ rằng: “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi phương Ðông.”
Tại sao Cha Ðắc Lộ không xin Giáo hội Pháp mà xin nước Pháp? Vì về mặt giáo quyền, Giáo hội Pháp bị ràng buộc bởi giáo lệnh của Giáo hoàng Alexander VI, 4.5.1493, nên Linh mục de Rhodes không thể xin Giáo hội Pháp lính thừa sai (missionnaires) được. Vì vậy, khi Cha Ðắc Lộ tiếp cận nước Pháp (hay bất kỳ nước nào khác, ngoại trừ Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha) là để xin lính chiến, hoặc để xin gì cũng được, ngoại trừ những gì liên can đến Giáo hội như giáo sĩ, giáo sản và giáo quyền… Cha Ðắc Lộ dùng chữ soldats (lính chiến) rất chính xác. Nước Pháp hay chính phủ Pháp làm gì có quyền cung cấp các vị thừa sai cho Cha? Hoàng hậu và vua Louis XIV thì có quân đội, chứ làm gì có linh mục, giám mục trong đó mà cha vào gặp vợ vua để xin?
Căn cứ vào từ ngữ và bối cảnh lịch sử như thế, nên sử gia Helen Lamb trong cuốn Vietnam’s will to live, tr. 38, rất đúng khi dịch chữ “soldat” (tiếng Pháp) ra tiếng Anh là “soldier” có nghĩa là lính chiến. [New York, 1972]
Ðể tránh tình trạng có thể bị hiểu lầm hay có sự “nhạy cảm” về tôn giáo, thay vì trích sắc lệnh của Giáo hoàng ở một sách khác, tôi sẽ trích từ sách Thập giá và lưỡi gươm của linh mục Trần Tam Tỉnh. Qua sắc lệnh, chúng ta thấy linh mục Ðắc Lộ không thể xin Giáo hội Pháp mà có thể chỉ xin chính phủ Pháp mà thôi. Nguyên văn:
“..., quyền lợi của Bồ Ðào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ “Romanus Pontifex” do Ðức (Giáo hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa thánh, Ðức Giáo hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Ðào Nha) “toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn”.
“Khi ban quyền cho người Bồ Ðào Nha được chiếm mọi thứ lợi lộc kể trên, Giáo hoàng đồng thời cũng muốn mở mang nước Chúa sang các miền xa xôi. Và để nhà vua Bồ Ðào Nha yên tâm hơn, Giáo hoàng ra lệnh cấm không một ai khác được phép đặt chân tới các vùng đất ấy nếu không có phép của nhà vua, dành cho nhà vua độc quyền buôn bán và ra vạ tuyệt thông tức khắc cho bất kỳ ai dám hành động ngược lại.” [Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Paris: Sudestasie, 1978, tr. 14-15].
“Năm 1492, Christopher Columbus khám phá ra những vùng đất mới mà ông nghĩ là Ấn Ðộ. Một nửa thế kỷ trước đó, thương thuyền Bồ Ðào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía Tây Châu Phi. Ít năm sau, năm 1497, Vasco de Gama, người Bồ Ðào Nha, đã phát hiện đúng con đường sang Ấn Ðộ.
“Ngày 4 tháng 5 năm 1493, qua sắc chỉ “Inter caetera” (“giữa những điều khác”), Giáo hoàng Alexander VI giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên mà các dân Phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở một trăm dặm kể từ quần đảo Azores, còn Bồ Ðào Nha, tất cả các nước nằm ở mạn Ðông đường ranh đó (quần đảo Azores ở mạn giữa cắt đôi Ðại Tây Dương.” [Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14].
Các Giáo hội Công giáo ở các quốc gia, dĩ nhiên, không ai dám phản đối các sắc lệnh của Giáo hoàng. Nhưng chính quyền các nước Âu châu ngay từ lúc có giáo lệnh của các Giáo hoàng cho đến mãi về sau đã không thừa nhận các giáo lệnh đó. Ngay cả nữ hoàng Elizabeth I (1533-1603) cũng phản đối. Năm 1540, vua Francis I của Pháp công khai chống đối ra mặt bằng câu mỉa mai: “Ai có thể chỉ cho ta thấy di chúc của ông tổ Adam giao tất cả thế giới cho Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha?” [2]
Giáo sĩ Ðắc Lộ (hoặc bất cứ một giáo sĩ nào) không thể trông cậy vào Giáo hội Pháp (hoặc bất cứ một giáo hội nào) nên ông đã vào triều đình Pháp để xin lính chiến là do bối cảnh chính trị tôn giáo trong thời kỳ đó như thế. Nhưng trong thời gian trị vì, vua Louis XIV bận rộn với những cuộc chiến tại Âu châu và phí tổn xây cất cung điện Versailles quá lớn, nên việc vận động của giáo sĩ Ðắc Lộ, có lẽ vì thế, mà không thành.
4. Về mặt tâm lý
Cha A. de Rhodes bị Chúa Trịnh đuổi, Chúa Nguyễn đuổi, Trung Quốc đuổi, há ông không xin binh lính (soldats) để phục thù sao? Mà chính cha cũng đã nóng giận lúc viết “Tôi chưa tuyên bố Thánh chiến chống mọi địch thù...” Trong cuốn Phép giảng tám ngày, viết cùng thời với cuốn Hành trình và truyền giáo, cha Ðắc Lộ đòi chém một ông giáo chủ khác:
“Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc, nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích-Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống, ...” (Aleaxandre de Rhodes, Phép giảng tám ngày, trang 115 & 116, Tủ sách Ðại Kết, TP. HCM, 1993).
Lúc bình thường được vua yêu chúa mến mà Cố vẫn nóng nảy đòi chém Thích Ca cho ngã huống hồ lúc bị các Vua Chúa Phật tử trục xuất ra khỏi Việt Nam? Phép giảng tám ngày viết như thế dễ bị kết án là một tác phẩm thiếu văn hóa, phi đạo đức, và kém thông minh của cha Ðắc Lộ.
5. Sứ mạng của một giáo sĩ Dòng Tên (Jesuite)
Muốn biết thêm giáo sĩ A. de Rhodes có ý đồ chính trị hay không, chúng ta cũng nên tìm hiểu Cha được đào tạo và trưởng thành như thế nào trong Dòng Tên.
Lời thề của các tu sĩ Dòng Tên trước Giáo Hoàng
“Tôi tên là ... Giờ đây, trước sự hiện diện của Chúa Toàn năng, sự cứu rỗi của Ðức Mẹ Ðồng trinh Maria, của các Thiên thần Michael, của Thánh John Baptist, các Thánh Tông đồ Peter và Paul và tất cả các vị Thánh thần của con, Cha Bề trên của Giáo hội Chúa Jesus, do Thánh Ignatius Loyola sáng lập trong nhiệm kỳ Giáo hoàng Paul III, và tiếp tục đến ngày nay, được tạo thành từ sự trinh nguyên, khuôn mẫu của Chúa và quyền năng của Chúa Cứu thế Jesus.
Xin tuyên thệ rằng:
Sự Thánh linh của Giáo hoàng là đại diện của Chúa Cứu thế, xứng đáng là thủ lãnh duy nhất của Giáo hội Gia Tô hay Giáo hội toàn cầu: và theo bí quyết của sự ràng buộc và buông lơi đã được đấng cứu thế, Chúa Jesus ban cho, ngài có quyền năng truất bỏ các vị Vua Chúa dị giáo (khác tôn giáo), các quốc gia, các nước Cộng hoà Quốc dân và các chính quyền, tất cả đều bất hợp pháp nếu họ không chịu phép bí tích của Chúa và chắc chắn họ sẽ bị hủy diệt.
Do đó, với quyền lực tối hậu của con, con sẽ kiên quyết bảo vệ đường lối, quyền năng và tập quán của Ðức Thánh Cha để chống lại tất cả những kẻ tiếm vị, những tên dị giáo hay giới chức Tin Lành và đối với tất cả những kẻ liên đới, chúng sẽ bị tước đoạt và bị coi là dị giáo, chống lại quyền bất khả xâm phạm của Giáo hội Ðức Mẹ La Mã (Mother Church of Rome).
Giờ đây con xin tuyên bố từ bỏ mọi bổn phận như là món nợ đối với bất cứ những tên Vua Chúa dị giáo hay quốc gia mệnh danh là Tin Lành hay Tự Do hoặc tuân theo bất cứ điều luật tài phán hay viên chức nào của họ.
Con xin tuyên hứa thêm rằng, con sẽ không có ý kiến hay quyết định của riêng mình, ngay cả đặc nhượng tinh thần, thể xác, nhưng con không ngần ngại tuân theo mệnh lệnh của Cha Bề trên trong Vệ binh của Giáo hoàng và của Chúa Jesus.
Con xin tuyên hứa rằng:
Trong mọi trường hợp nếu có dịp, con sẽ tạo ra chiến tranh và tham chiến một cách bí mật hay công khai chống lại tất cả những kẻ dị giáo, Tin Lành và Tự Do mà không hề do dự. Khi được lệnh thi hành, con sẽ tàn sát và triệt hạ tận gốc những tên này trên khắp mặt địa cầu. Con sẽ không từ một kẻ nào: không kể tuổi tác, đàn ông hay đàn bà, con sẽ treo cổ chúng, thiêu chúng, bỏ chúng vào nước sôi, lột da, siết cổ hay chôn sống những kẻ dị giáo, mổ bụng, moi bào thai trong tử cung vợ chúng ra và đạp nát đầu những hài nhi vào tường, trong mục đích hủy diệt một dân tộc đáng ghét.
Khi nhiệm vụ kể trên không thể thi hành một cách công khai, con sẽ bí mật dùng ly thuốc độc, dùng dây thắt cổ, dao găm hay đạn chì, không cần biết đến danh giá, cấp bậc, phẩm hạnh hay quyền hạn của một người hay một nhóm nào, bất cứ hoàn cảnh nào của họ trong cuộc sống, dù đời công hay cá nhân, bất cứ lúc nào được lệnh thi hành của bất cứ vị đại diện nào của Giáo hoàng hay Cha Bề trên, của tình Huynh đệ của Hội Thánh linh Chúa Jesus.
Trong sự xác quyết tuyên thệ, con xin dâng hiến đời con, linh hồn con, và tất cả quyền năng cụ thể của con và với lưỡi dao “thánh giáo”mà con hiện đã nhận được, con sẽ viết tên con bằng chính máu của con, trong lời thề này; nếu con giả dối hay yếu mềm trong quyết định của con, thì người đại diện hay bạn đồng ngũ, vệ binh của giáo hoàng có thể cắt bỏ tay chân con, cưa cổ con từ tai này qua tai kia, banh bụng con nhét lưu huỳnh vào mà đốt, con xin chịu tất cả những hình phạt đau đớn trên trái đất và linh hồn con sẽ bị quỷ sứ dưới địa ngục hành hạ đời đời!” [Bản dịch Thái Vân, Gia Tô thực dân sử liệu của Chu Văn Trinh, Văn Sử Ðịa 1990, in lần thứ ba. Ban Tu thư Tự lực, trang 255-257). [3]
Nếu so sánh một phần nhỏ của lời thề trên với những gì Cha công kích mạt sát Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo và truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên trong cuốn Phép giảng tám ngày, thì việc thóa mạ các tôn giáo ấy vẫn còn quá ít.
Sử liệu cho thấy Linh mục A. de Rhodes gia nhập Dòng Tên lúc 19 tuổi (1612), ông đến Macao năm 1623, đến Quảng Nam và Thuận Hoá cuối tháng 12.1624. Ông ở Việt Nam khoảng sáu đến tám năm. Trong suốt thời gian này, Cha Ðắc Lộ không bị dứt phép Thông công, không bị khai trừ ra khỏi Giáo hội, nghĩa là Cha vẫn theo Dòng Tên.
Với sứ mạng của một giáo sĩ Dòng Tên mà Linh mục A. de Rhodes (Ðắc Lộ) đã thề, thì chữ "soldat", có thêm một lý do nữa, không thể nào dịch là “lính thừa sai” (tức giáo sĩ) được mà phải dịch là lính chiến, và cụm từ "la conquête de tout l’Orient" cũng không thể dịch là “nước cha trị đến” mà phải dịch là đến thống trị phương Ðông.
6. Tại sao chúng ta sai lầm?
Qua năm phần trình bày trên, tôi thấy bất cứ ai có cái nhìn khách quan cũng không thể nói là linh mục A lexandre de Rhodes không có thâm ý kêu gọi chính phủ Pháp xâm chiếm nước ta bằng chính trị và vũ lực, và hai cụm từ "plusieurs soldats" và "la conquête de tout l’Orients" cũng không thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ là lính thừa sai và nước cha trị đến được.
Nhưng tại sao qua cả hai cuộc hội thảo tại Việt Nam năm 1992 và 1993 có hằng trăm sử gia, học giả và những vị khoa bảng cao cấp lại đưa đến những quyết định sai lầm trầm trọng đến thế? Sai lầm tầm trên cỡ quốc gia? Theo tôi, nhiều hội thảo viên, mặc dầu là những nhân vật khoa bảng nhưng thiếu sử liệu, nhất là thiếu một cuốn sử liệu quan trọng bậc nhất. Ðó là cuốn Hành trình và truyền giáo. Thật vậy, sách do Hồng Nhuệ dịch và chỉ mới được xuất bản lần đầu (?) tại Việt Nam năm 1994, mà hai lần hội thảo thì được tổ chức vào các năm 1992 và 1993. Riêng GS Chương Thâu, và nhất là linh mục Hồng Nhuệ là hai người, tôi nghĩ, biết rất rõ về Ðắc Lộ, vì hai vị có trong tay cuốn tư liệu này. Hơn nữa, linh mục Hồng Nhuệ còn đỗ tiến sĩ Thần học về phân tích cuốn Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes, và cũng là dịch giả cuốn Hành trình và Truyền giáo nói trên. Nhưng vì tình cảm tôn giáo hay một lý do riêng tư nào đó, hai ông đã tranh biện với những hội thảo viên, không có tài liệu, để bênh vực một cách rất sai lầm về Ðắc Lộ. GS Chương Thâu, thay vì trích dẫn đầy đủ cả ba đoạn quan trọng trong hơn một trang sách (trang 263 & 264) thì chỉ trích một đoạn (trang 263) mà thôi. Như vậy, GS Chương Thâu không những đã phạm vào cái lỗi mà ông phê bình GS Hoàng Tuệ, là “Trích không trọn câu đủ ý,” lại còn biện bạch và khuynh chế các hội thảo viên để “đưa ra nhiều kiến nghị với các cấp có thẩm quyền... nhằm khôi phục vị trí ‘xứng đáng’ cho linh mục A. de Rhodes”. [Hệ quả của vấn đề là một đất nước từng tự hào, một cách có thực, có bốn ngàn năm văn hiến và đánh thắng ba cường quốc vĩ đại của thế giới lại đi vinh danh một người không những bất xứng mà là một gián điệp ngoại bang làm hại đất nước ta!]
Tóm lại, qua sáu luận điểm nêu trên, chúng ta thấy, với Linh mục Ðắc Lộ, truyền đạo chỉ là một trong những bước đầu để biến những người dân thương yêu tổ quốc thành những kẻ ly khai với xứ sở, và việc kêu gọi chính phủ Pháp xâm chiếm nước ta để vừa làm nhiệm vụ một tông đồ truyền giáo vừa làm nhiệm vụ một công dân yêu nước (Pháp).
Vì thế, không phải vô cớ Cha Ðắc Lộ bị Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn và cả chính quyền Trung Quốc đuổi ra khỏi nước.
Khí cụ chữ Quốc ngữ
Ngoài ra, để góp ý về vai trò của chữ Quốc ngữ trong lịch sử văn hóa nước ta, tôi xin trích những đoạn nói về mục đích của chữ Quốc ngữ trong sách lược chính trị của Giám mục Puginier. Dẫu Giám mục Puginier không sống đồng thời với Cha Ðắc Lộ, nhưng chiến lược lịch sử thì giống nhau, vì đây là một trong những công cụ đã được sáng chế bởi những Giáo sĩ đi trước Giám mục Puginier.
Mục đích việc sử dụng chữ Quốc ngữ của Giám mục Puginier [4] :
“‘Từ lâu, tôi chủ trương dạy và dùng chữ Châu Âu để viết tiếng An Nam, nhưng khốn thay, tôi không được ủng hộ trong việc thực hiện kế hoạch mà đã sáu lần tôi đề nghị. Nhưng tôi sung sướng thấy từ hai năm nay, chúng ta hoạt động tích cực trong mục đích này: Ngoài trường dạy tiếng Pháp của phái bộ là trường đầu tiên được thiết lập ngày 8-12-1884, chính phủ còn lập nhiều trường khác từ ngày 5-4-1885.
Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được tiếng họ bằng chữ Âu Châu, việc này dễ hơn và tiện lợi hơn dùng chữ Nho. Trong vài năm sau, cần phải bắt buộc mọi giấy tờ chính thức không được viết bằng chữ Nho như trước nữa, phải viết bằng tiếng trong nước, mỗi viên chức ít nhất phải được dạy đọc và viết tiếng An Nam bằng chữ Châu Âu. Trong lúc đó, việc dạy chữ Pháp sẽ tiến triển nhiều hơn và chúng ta chuẩn bị một thế hệ để cung cấp các viên chức có học tiếng nước chúng ta. Như thế có lẽ trong vòng 20 hay 25 năm, chúng ta có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều viết bằng tiếng Pháp, do đó chữ Nho sẽ dần già bị bỏ rơi mà chúng ta chẳng cần phải cấm đoán gì.
Khi chúng ta đạt được thành quả lớn lao đó, chúng ta xóa đi của nước Trung Hoa một phần lớn ảnh hưởng tại An Nam và phe trí thức An Nam là phe rất căm ghét sự thiết lập thế lực Pháp, cũng sẽ bị tiêu diệt dần dần.
Vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn, sau khi đạo Thiên chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An Nam, rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Ðông.’
Ngoài việc Thiên chúa giáo hoá xứ này và xóa bỏ chữ Nho, Giám mục Puginier còn đề nghị một số biện pháp thực tế khác để cũng cố nền thống trị Pháp ở Bắc kỳ: Cho định cư tại ven biên giới Việt Nam, tiếp cận Trung Hoa, các nhóm dân thân hữu và trung thành với nước Pháp, sử dụng các dân tộc ít người trong công việc bình định, đào tạo một đội quân Pháp theo mẫu quân đội Ấn Ðộ xưa kia, tạo lập một nông trại kiểu mẫu do tu sĩ Dòng Luyện Tâm đảm đương, giảm bớt chi phí và thuế má để chinh phục (lòng quý trọng và thương yêu) của dân chúng… (Hiện nay dân miền thượng bị lỗi đạo cũng nằm trong kế hoạch này, BK)
Giám mục kết luận:
‘Tôi đã làm việc gần 30 năm trong phái bộ và tôi biết khá nhiều về đất nước này để bảo đảm được rằng nếu chính phủ chấp thuận theo kế hoạch mà chúng tôi hân hạnh đưa ra, thì không bao lâu nữa Bắc Kỳ sẽ thành một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông mà tôi một lòng tha thiết muốn xây dựng.’
Là giám mục Hà nội, người cầm đầu phái bộ lớn nhất ở Bắc Kỳ đã giúp rất nhiều cho đoàn quân chiếm đóng Pháp nhờ sự hiểu biết rộng lớn về đất nước này, Puginier lúc nào cũng là vị cố vấn được nghe theo nhiều nhất, là kẻ hợp tác mà giới chức Pháp luôn tôn trọng. Tóm lại, ông ta là Laviegerie ở Ðông Dương.
Trong một “văn thư dành cho bộ trưởng” đề ngày 4-4-1884, Puginier được kể như là kẻ góp phần nhiều nhất cho cuộc xâm lăng Bắc Kỳ:
‘Trong thư từ chính thức của thiếu tá Rivière và những người kế tiếp ông ở Bắc kỳ, Giám mục Puginier thường được nêu lên vì đã có những phục vụ lớn lao cho nước Pháp. Nhờ sự hiểu biết đầy đủ của ông ở xứ này, nhờ có nhiều tin tức do thám do các tín đồ Thiên chúa giáo Bắc Kỳ cung cấp mà bộ tổng tham mưu đã có thể nhận nhiều thông tin về xứ này, như về đường sá ở Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hoá… chính nhờ có các chỉ điểm đó mà chúng ta tìm được chiếc đầu của thiếu tá Rivière cùng các bạn đồng đội không may của ông. Ở đây tôi không nói đến vai trò chính của chính trị mà giám mục đã đóng từ khi chúng ta đến Bắc kỳ. Thất vậy, ông đã nghe theo tiếng gọi vừa là quyền lợi của người lãnh tụ đạo Thiên chúa, vừa là tình cảm yêu nước, và chính phủ có thể đi đến chỗ không tán thành hết mọi hoạt động của ông, nhưng ngoài những nhận xét đó ra tôi thấy dường như khó khăn mà bỏ qua, không nói đến công việc đặc biệt mà Giám-mục Puginier đã giúp cho đoàn quân chiếm đóng.’”
Gậy ông đập lưng ông
Ðoạn trích sau đây là của giáo sư Trần Chung Ngọc, tiến sĩ vật lý tại Hoa Kỳ, đăng trên Vietnet, cho thấy các bậc cha ông chúng ta đã biết sử dụng “Vũ khí Việt ngữ” của thực dân chế tạo để giải phóng đất nước như thế nào:
“Những nhà cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu… nhận ra tầm quan trọng của công việc mở mang dân trí và cổ xuý việc truyền bá Quốc ngữ, do đó Hội Truyền bá Quốc ngữ mới ra đời vào thập niên 1930 và dù thực dân Pháp và các Cha cố Thiên chúa giáo muốn cản cũng không được. Sự phát triển Quốc ngữ cho tới ngày nay là do công ơn của hai cụ Phan dùng đòn (gậy ông đập lưng ông) dùng Quốc ngữ để mở mang dân trí người Việt, xuất bản báo chí bằng chữ Quốc ngữ để phổ biến tinh thần cách mạng Pháp năm 1789, và khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Tình Huynh đệ” thường được dịch thoát là “bác ái” (Liberté, Egalité, Fraternité) và từ đó các phong trào cách mạng đã lan rộng trong quần chúng chủ nghĩa thực dân Pháp phải cáo chung tại Việt Nam.”
Sự sáng tạo ra chữ Quốc ngữ với những mục đích đen tối hiển nhiên không phải là để giúp người Việt mở mang đầu óc, nhưng ông cha chúng ta đã dùng nó làm một vũ khí để khai phóng dân tộc. Vậy chúng ta nên biết ơn ông cha chúng ta hay biết ơn kẻ tạo ra nó với những ý đồ đen tối?
Một tên giặc tới nhà chúng ta tạo ra một vũ khí để dễ bề quyến rũ con em nhẹ dạ theo chúng phản lại tổ tiên, chúng ta dùng ngay vũ khí đó để mở mang đầu óc của tất cả những người ở trong gia đình, nhờ đó mà gia đình chúng ta bảo vệ được truyền thống luân lý đạo đức của gia đình, bảo toàn gia tài của tổ tiên khỏi bị cướp đi. Vậy chúng ta nên nhớ ơn những người trong gia đình có sáng kiến dùng ngay vũ khí của địch để đánh địch, hay nên nhớ ơn kẻ đã mang vũ khí đến nhà chúng ta để cướp đi của cải và gây bất hoà trong gia đình chúng ta?
Tôi hi vọng vấn đề công và tội của Alexandre de Rhodes nay đã sáng tỏ.
Tôi xin kết thúc bài viết với ý kiến cuối cùng sau đây
Dân tộc ta có truyền thống ghi công và biết ơn anh hùng liệt nữ đã đóng góp cho tổ quốc. Và chúng ta thể hiện lòng biết ơn đó qua các biểu hiện vật thể hoặc phi vật thể để vinh danh những vị đó bằng các ngày lễ, đặt tên trường, công viên, đường phố.
Quan trọng hơn, chúng ta phổ biến trung thực và đầy đủ dưới mọi hình thức những công trình và công trạng của những vị này. Nhưng chúng ta cũng không quên những kẻ có tội với đất nước mà tên tuổi và những tội trạng cũng được nghiên cứu để ghi vào sử sách cho người đời này và đời sau lấy đó làm bài học. Tiêu chuẩn lớn nhất để quy định công/tội là họ đã làm gì cho dân tộc và tổ quốc Việt Nam.
Về việc phiên âm tiếng Việt theo mẫu tự La tinh: đây là một công trình tập thể, trong đó có Linh mục Alexandre de Rhodes, nhưng ông chỉ là học trò của các giáo sĩ Bồ Ðào Nha, nhất là của Francisco de Pina.
Do đó, trong bảng ghi công (nếu muốn và cần) chúng ta nên để tên giáo sĩ Bồ Ðào Nha, Francisco de Pina trước tiên, kế đến là Barbosa (tác giả Từ điển Bồ Việt) và Amaral (Từ điển Việt-Bồ). Tiếp theo là giáo sĩ Alexandre de Rhodes, các thầy đồ, sư sãi, nhiều trí thức Việt Nam,và sự đóng góp đắc lực và hữu hiệu của nhiều con chiên. Thêm vào đó, giáo sĩ Ðắc Lộ cũng có công thêm chữ La-tinh vào hai cuốn Từ điển Việt-Bồ và Bồ-Việt của hai giáo sĩ người Bồ để trở thành cuốn Từ điển Việt-Bồ-La [nhưng thay vì đề tên tác giả là ba người, linh mục Ðắc Lộ chỉ để tên riêng mình mà thôi]. Trong quá trình truyền đạo tại Việt Nam, ông cũng viết cuốn Phép giảng tám ngày bằng tiếng La-Tinh và tiếng Việt với mục đích để truyền đạo [trong cuốn sách này có những lời lẽ rất hung bạo, thiếu văn hóa, khinh mạn và thù hận những tôn giáo có mặt trước đó tại Việt Nam]. Nhưng ông cũng có tội lớn là cung cấp thông tin chiến lược, nhiều khi có ý đồ kích động, để vận động nước Pháp xâm chiếm lãnh thổ, kinh tế và khuynh loát chính trị nước ta.
Vậy từ cái công cái tội đó tôi xin đề nghị như sau: Dân tộc ta nên ghi công của Linh mục A. de Rhodes, vì qua tác phẩm dùng để truyền đạo, dân ta cũng lợi dụng được nó để cải tiến thêm chữ Việt phiên âm theo mẫu tự La-tinh. Và nên kết tội ông là kẻ gián điệp sớm nhất trong lịch sử xâm lăng của Tây Phương vào nước ta. Ông đã vào triều đình Pháp vận động để Pháp đánh chiếm nước ta. Hành động chính trị của ông là bước dẫn khởi cho gần một trăm năm nước ta bị Pháp đô hộ và hệ quả của nó vẫn còn di hại cho đến ngày nay.
Tên và tiểu sử của Linh mục cần được ghi lại trong chương trình giáo dục môn sử với đầy đủ công tội. Có như vậy, lịch sử mới rõ ràng, và việc ứng xử của chúng ta mới minh bạch, vì nếu ta không sòng phẳng với quá khứ thì tương lai sẽ không sòng phẳng với chúng ta.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes, tôi đã có dịp biết đến và/hoặc đối thoại với một số các nhà nghiên cứu khác, nên xin kết thúc bài viết bằng những lời tâm sự với quý vị đó:
a. GS Chương Thâu: Cuối tháng 7.1996, dưới bút hiệu Nguyễn Kha, tôi có viết bài “Góp ý với giáo sư Chương Thâu về vai trò của linh mục Alexandre de Rhodes và nguồn gốc chữ Quốc ngữ” để biện chính với GS về bài viết của ông đăng trên Hiệp Nhất. Từ đó đến nay đã 10 năm, nhưng chưa thấy giáo sư viết bài phản biện để bênh vực quan điểm của mình hay thừa nhận có sự sai sót trong lúc nghiên cứu. Nhân dịp này, ước mong giáo sư lên tiếng. Hoặc đưa thêm chứng cớ cho quan điểm của giáo sư về Linh mục Alexandre de Rhodes, hoặc công khai xin lỗi các đồng nghiệp Viện Sử học, xin lỗi quí vị trong hai cuộc Hội thảo năm 1992 & 1993 mà tôi có nhắc đến trong bài viết này, nhất là xin lỗi Bộ Văn hóa và Chính phủ vì việc nghiên cứu thiếu chu đáo của giáo sư đã làm thương tổn đến không những cho ngành sử học nước nhà mà cho thể diện của quốc gia nữa.
b. TS Thần học Linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên: Xin đề nghị cũng nên có lời xin lỗi cố GS Hoàng Tuệ, vì sau khi bài tham luận của GS (đăng trên tờ Tuổi Trẻ với tựa đề “Ai làm ra chữ Quốc ngữ”) nêu lên những nghi ngờ chính đáng về quan điểm chính trị của A. de Rhodes thì liền bị Linh mục viết bài mạt sát, mang tính đối đầu chứ không phải đối thoại, bằng những lời lẽ kém văn hóa như “ngu, dốt”. Những từ này được lặp đi lặp lại đến 15 lần trong một bài viết ngắn (đăng trên tạp chí Ngày nay, Houston, Texas, Hoa Kỳ, 1993) có tựa đề “Gởi Giáo sư Hoàng Tuệ bàn về chữ Quốc ngữ trên tờ Tuổi Trẻ”.
c. Ban chủ trương talawas: Vấn đề Alexandre de Rhodes đến nay có lẽ không còn nằm trong khuôn khổ của việc nghiên cứu về sử học hay học thuật nữa, mà nó có liên đới đến uy tín quốc gia. Do đó, tôi đề nghị, nếu được, thì quí vị trong ban chủ trương nên mở rộng diễn đàn về vấn đề này, tập trung đăng tất cả những bài thuận hoặc nghịch viết về Alexandre de Rhodes mà quí vị có thể sưu tầm được, bài cũ cũng như bài mới.
Riêng cá nhân tôi, tôi ước mong nhận được những lời phê bình về bài viết của mình, nhất là những bài không đồng thuận, để tôi có dịp học hỏi thêm.
Bùi Kha
24.4.2006
© 2006 talawas
[1] The riches of the East, real and fabled, tantalized Europe. Travelers like Marco Polo had returned with breathless tale of Burmese temples “covered with gold a full finger thick,” and Indian shores whose “sands sparkled and glittered with gems and precious ores.” But no Asian treasure matched its pepper, nutmeg, clove, and other spices essential to preserve food, especially in the warmer climates of southern Europe. (Stanley Karnow, p. 55).
[2] “Who can show me the will of father Adam leaving all the world to Spain and Portugal?” trong This is America’s Story, của Howard B. Wider, Robert P. Ludlum & Harriett McCune Brown, do Houghton Mifflin Company, Atlanta, xuất bản năm 1975. trang 63.
[3] The extreme oath of the Jesuits:
I, (name), Now, in the presence of Almighty God, the Blessed Virgin Mary, the blessed Michael the Archangel, the blessed St. John the Baptist, the holy Apostles St. Peter and St. Paul and all the saints and sacred hosts of heaven, and to you my ghostly father, the Superior General of the Society of Jesus, Founded by St. Ignatius Loyola, in the Pontificate of Paul the Third, and continued to the present, do by the womb of the virgin, the matrix of God, and the rod of Jesus Christ, declare and swear, that his holiness the Pope is Christ’s Vicegerent and is the true and only Head of the Catholic or Universal Church throughout the earth: and that by virtue of the keys of binding and loosing, given to his Holiness by my Saviour, Jesus Christ, he hath power to depose heretical kings, princes, states, commonwealths and governments, all being illegal without his sacred confirmation and that they may safely be destroyed.
Therefore, to the utmost of my power, I shall and will defend this doctrine and His Holiness’ right and custom against all usurpers of the heretical of Protestant authority and all adherents in regard that they be usurped and heretical, opposing the sacred Mother Church of Rome. I do now renounce and disown any allegiance as due to any heretical king, prince or state named Protestants or Liberals or obedience to any of their laws, magistrates or officers.
I do further promise and declare, that I will have no opinon or will of my own, or any mental reservation whatever, even as corpse or cadaver, (perinde ac cadaver), but will unhesitatingly obey each and every command that I may receive from my superiors in the Militia of the Pope and of Jesus Christ.
I furthermore promise and declare that I will, when opportunity present, make and wage relentless war, secretly or openly, against all heretics, Protestants and Liberals, as I am directed to do, to extirpate and exterminate them from the face of the whole earth; and that I will spare neither age, sex or condition; and that I will hang, burn, waste, boil, flay, strangle and bury alive these infamous heretics, rip up the stomachs and wombs of their women and crush their infants’ heads against the walls , in order to annihilate forever their execrable race.
That when the same can not be done openly, I will secretly use the poisoned cup, the strangulating cord, the steel of the poinard or the leaden bullet, regardless of the honor, rank, dignity, or authority of the person or persons, whatever may be their condition in life, either public or private, as I at any time may be directed so to do by any agent of the Pope or Superior of the Brotherhood of the Holy Faith, of the Society of Jesus.
In confirmation of which, I hereby dedicate my life, my soul and all my corporeal powers, and with this dagger which I now receive, I will subscrible my name written in my own blood, in testimony thereof; and should I prove false or weaken in my determination, may my brethren and fellow soldiers of the Militia of the Pope cut off my hand and my feet, and my thoat from ear, my belly opened and sulphur burned therein, with all the punishment that can be inflicted upon me on earth and my soul be tortured by demons in an eternal hell forever!
[4] Dẫn theo Cao Huy Thuần, Ðạo Thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam, trang 386 – 388.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét